GỌI TÊN EM BỐN MÙA

 Võ Sư Nguyễn Tiến Hóa


 “ Em đứng lên gọi mưa vào Hạ….Từng cơn mưa, từng cơn mưa…Từng cơn mưa…..Mưa thì thầm dưới chân Ngà…..Em đứng lên gọi  Thu tàn tạ….Hàng cây khô, cành bơ vơ…..Tin buồn từ ngày Mẹ cho mang nặng kiếp người…!

Rồi mùa  Xuân không về, mùa Thu cũng ra đi, mùa Đông vời vợi, mùa Hạ khói mây…………Ôi tóc em dài  đêm thần thoại……..”

Nghe hát tới đây người viết chợt tự hỏi : Không biết từ cái buổi hồng hoang ấy, khi mà con người còn ăn lông ở lỗ, thì những người đẹp đã biết làm dáng, chớp chớp mắt đưa tình hay chưa ? Và những đấng mày râu thuở đó có biết làm thơ tình để tán những người đẹp không : Nào là  gót sen, gót ngọc, chân ngà… Bàn tay búp măng.Mắt bồ câu, mắt phượng…mày ngài, hay cặp lông maỳ lá liễu…Tóc mai sợi ngắn sợi dài ..v…v…. Và những ngày đầu đời của con người thì đã là mùa Xuân  hoa lá khoe tươi muôn sắc hay Đông  buồn ảm đạm thê lương, Thu vàng  cho nai về ngơ ngác hoặc Hạ cháy đêm tàn hiu hắt  ? Nhưng dù là mùa nào đi nữa  thì theo sách Sáng Thế Ký : Khi Chúa đã  tạo dựng nên tất cả chim trời cá biển, cùng mọi cây cỏ tốt tươi, mặt trời, mặt trăng,  sao sáng đầy trời rồi mới tạo dựng nên Adam, và cho Adam làm chúa tể muôn loài; nhưng chàng Adam cứ thơ thẩn, lơ tơ mơ, buồn chán, rồi mắc phải cơn bệnh trầm cảm : Biếng ăn, biếng ngủ……..Lúc đó Chúa mới nghĩ rằng, cái anh chàng Adam cần có một bóng hồng để chữa căn bệnh trầm kha đó; thế là Chúa  chờ cho Adam ngủ say, bèn  rút  một chiếc xương sườn cụt của chàng mà biến ra cô  Eva xinh xinh; cũng  từ ngày đó Adam đã tập làm thơ tình để tán dương sắc đẹp của giai nhân, vì  qúa say mê Eva nên đã hết lòng chiều chuộng, chăm sóc nàng ngày cũng như đêm, để rồi một hôm, Eva nghe lời rắn độc ăn qủa trái cấm, còn rủ rê cả Adam……Sợ người yêu giận hay là lệnh ông không bằng còng bà, hoặc Lady First.Mặc dù đã  được nghe Chúa ngăn cấm, nhưng vì  thương yêu Eva hết mực mà đang tâm phạm tội cùng Chúa, đễ  ngày nay con người cứ phải lao tác vất vả, và còn bị các nàng tiên Eva con cháu đày đọa đủ điều……..Hỡi cái xương sường cụt của ta  ơi, sao mi  nỡ tâm mà  hành hạ ta ! ? Lời than của ai đó  âm thầm thoát ra trong cơn nightmare (mơ hoảng) giữa đêm về sáng…………..

Nhớ lại cái thuở mà kẻ hèn này vừa biết nhịp tim lộn nhịp, nhìn cô bé hàng xóm, mà  chỉ mới năm ngoái năm kia còn  ngồi chơi búng giây thung, nhảy cò cò với nhau…Cãi lộn chí chóe, thế mà bây giờ nhìn nó có cặp má hây hây đỏ thì  thấy sao , sao ấy; gặp nhau chẳng dám nói lời nào, rồi tim thì đập loạn xà ngầu, thật là kỳ kỳ ! ? Nhiều lúc muốn gọi tên nó như ngày xưa, mà miệng chẳng  nói lên lời , muốn đến bên nó thủ thỉ vài câu mà chân cứ đứng như là  trời trồng ? Thế rồi tôi suy luận :  Người xưa chắc cũng vậy, vì đó chính là định luật của  Tạo Hóa khi vạn vật tới cái tuổi biết trăng, biết hoa thì  cây sẽ đổi sắc, lá sẽ đổi màu….Và con người thấy kẻ khác phái có cái gì dễ thương chi  lạ ? Đẹp, đẹp, xinh xinh….Mùi hương thoang thoảng nghe ngây ngất, ngất ngây đến quên ăn mất  ngủ …..Đêm nhớ ngày mong…Đi đứng thẫn thờ để : “ Nhìn em  một nửa hồn anh mất, một nửa hồn kia bỗng dại khờ.” Ban ngày anh chẳng dám gọi tên em, nhưng  đêm về anh ôm gối mà cứ tưởng là em, rồi mơ mộng mà gọi thầm tên em : “ Em đứng lên gọi mưa vào Hạ……..” Em đẹp thật não nùng và cũng  kiêu sa qúa, em hững hờ  cho tim anh ngừng đập và làm cho  hồn anh  như đang   bị  đốt cháy  trong  lửa Hạ  !

   “ Từng cơn  mưa, từng cơn mưa, rồi từng cơn mưa, mưa thì thầm dưới chân ngà……Cám ơn em, cám ơn cơn mưa, nhưng  cơn mưa về, dù  có   ầm ầm   như thác đổ, nước lũ , thì đến bên em chỉ còn dám thì thầm, khép nép dưới chân ngà….Em đứng lên mùa Thu tàn tạ…Hàng cây khô, cành bơ vơ….Tin buồn từ ngày Mẹ cho mang nặng kiếp người….”

GỌI TÊN EM BỐN MÙA !  Là một trong những  đoản khúc tình yêu của nhân loại.

Thế rồi, đoạn cuối của đoản khúc tình yêu; tác gỉả đã cho một lời than :

“ Tin buồn từ ngày Mẹ  cho mang nặng kiếp người.”

Thật vậy, từ khi con người với ba tiếng khóc chào đời, thì hầu như  đau thương   nhiều hơn  sung sướng : Cười ba tiếng , khóc cả ngàn lời. Thế nên Đức Phật đã  gọi  : “Đời là bể khổ.” để nhắc nhở chúng sinh hãy diệt khổ bằng cách tu thân tích đức,biết nhìn vào bản thể của chính mình, dùng kiếng chiếu soi vào miền sâu thẳm nhất của tâm hồn để nhận biết mình là ai, và từ đâu tới, và rồi sẽ tự hỏi : Mình sẽ đi về đâu  ?  Đức Huệ Nhãn đã cảnh tỉnh : “  Thân thị Bồ Đề thụ   -    Tâm như minh kính đài.” Chính cái Tâm của con người mới thật  là quan trọng . Trong cuộc sống, nếu con người chỉ nhắm mắt chạy theo những dục vọng của thân xác thì sẽ chuốc lấy vô vàn những đau khổ. Sự đau khổ sẽ do chính mình tạo nên cho mình và gây đau khổ cho những người xung quanh. Chính dục vọng đã tạo nên những bất an trong xã hội, chính dục vọng đã khơi mào cho chiến tranh. Chiến tranh đã gây ra biết bao thảm

cảnh : chết chóc, tàn tật, đói khổ sẽ chồng chất trùng trùng, kiếp kiếp mà con người sẽ không thể thoát ra được. Nguyễn Du cũng đã nghiệm thấy điều đó, để  ghi lại cho hậu thế :  “ Chữ Tâm kia mới bằng  ba chữ Tài.”

Muốn cho Tâm trong sáng, thì điều đầu tiên là  phải có thân chất mạnh khỏe. Không  thể có một tâm hồn trong sáng trong một thân thể ốm yếu,  tiều tụy, bệnh hoạn.

Cuộc Cách Mạng Tâm Thân của môn phái VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO, cũng chính là con đường Tu Tâm Dưỡng Tánh  của giáo lý Phật Giáo hay  Mười Điều Răn của Thiên Chúa Giáo.

Làm một cuộc Cách Mạng Tâm Thân không thể chỉ trong một ngày, một vài tháng hay một hai năm. Mà  nó phải được liên tục trong suốt cuộc đời, và còn phải tiếp tục từ đời này sang đời khác. Nghĩa là, ngay từ  khi chưa thụ thai, thì chính người cha  và mẹ đã phải ý thức để chuẩn bị cho mình, cho dân tộc và cho nhân loại một giòng giống tốt trong tương lai, cái genes của cha và mẹ đã là DNA của cuộc Cách Mạng  Tâm Thân. Cuộc Cách Mạng đòi hỏi chúng ta phải có nhiều quyết tâm.

Ta hãy xem nước Nhật  sau thế chiến thứ  hai, Minh Trị Thiên Hoàng đã khuyến khích thanh niên nam nữ hãy lập gia đình với  người Âu Tây để được lai giống.  Cuộc Cách mạng  này đã bị thần dân Nhật chống đối kịch liệt, vì nó xâm phạm đến tinh thần quốc gia, phạm vào quốc thể. Nhưng nhờ đó ngày nay, chúng ta thấy  người Nhật không còn lùn tịt   mắt nhỏ tí như ngày xưa; các thanh niên thiếu nữ của Nhật  đã cao lớn, mắt to, hai mí, đẹp không thua một dân tộc nào khác…….

Cách Mạng, hai chữ ấy đã bị thế giới loài người lầm tưởng lẫn lộn với  chiến tranh  hay chính trị trong nhiều thập niên qua, nên thấy  mê hoảng đến chán chường, ghê tởm.

 Thật ra, cách mạng chỉ  là một sự đổi mới : Bỏ xấu, tìm tốt. Một sự thăng hoa, tiến hóa trong xã hội loài người hay mọi sự vật của thế giới nói chung.

Con người ngày nay đang bị  mê hoặc trong thế giới vật chất, ngành khoa học có tiến bộ nhưng lại bỏ  cái TÂM vào quên lãng, nên con người đang trở thành robot thời đại,  làm việc theo phương trình toán học được sắp sẵn. Chính vì thiếu tinh thần Nhân Bản, nên con người của khoa học không cảm thấy ghê tởm trước cảnh máu chảy thịt rơi chết chóc của đồng loại.

Thử xem tâm nguyện sống của  người Việt Võ Đạo Sinh để hiểu rõ hơn môn phái VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO.

Việt Võ Đạo Sinh nguyện sống  trong sạch, giản dị , trung thực và cao thượng. Đây chỉ là một trong 10 điều tâm niệm, mà các  môn sinh  phải luôn lấy như một kim chỉ nam trong cuộc sống.

Bồn đức tính :     -   Trong sạch - Giản dị - Trung  thực - Cao thượng

 Không những chỉ phù hợp với người Việt Võ Sĩ mà  còn phù hợp với bất cứ một tôn giáo nào có  tâm niệm  hướng thiện.

-  Trong Sạch :  “ Gần  bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Người   Việt Võ Sĩ không phải là  người tu hành, nên phải sống giữa trần thế; sống cho, sống bởi; thế nên phải luôn luôn tự  nhắc nhở để không bị mê hoặc trước những cám dỗ, rèn tâm luyện tính như người lau chùi mặt kiếng mỗi ngày để không bị cát bụi vương lấm.

-   Giản dị : nghĩa là không cầu cạnh, ham muốn quá độ…..Người Việt Võ Sĩ không sống khổ hạnh như  tu sĩ, nhưng luôn luôn chấp nhận những gì có thể có theo tinh thần ( Tri túc, tiện túc). Sự giản dị sẽ giúp người Việt Võ Sĩ  dễ hòa đồng với mọi người.

-    Trung  thực :  Đó là sự thẳng thắn, thật thà. Chính sự giản dị đã giúp cho người Việt Võ Sĩ không tham lam,nên không gian trá với  mọi người. Tuy nhiên, không phải người Việt Võ Sĩ trung thực đến ngu ngơ, không hiểu biết đến sự lừa đảo; đôi khi còn phải chứng tỏ cho  người gian xảo biết rằng sự lừa đảo sẽ không thể đem đến thành công mãi mãi.

-     Cao thượng :  Biết nhường nhịn, thương yêu  người dưới. Trong cuộc sống thường tình thì cá lớn nuốt cá bé. Nhưng người Việt Võ Sĩ không xử dụng những ưu thế để lấn lướt người khác; đặc biệt là những người kém may mắn hơn mình, đôi khi còn giúp đỡ tận tình để những người cùng khổ có được cuộc sống  đầy đủ, tươi vui hạnh phúc.

 Nối tiếp tâm niệm và hoài bão của vị Sáng Tổ môn phái…..Ngày nay các môn đệ kế thừa đang  vận dụng tất cả những khả năng có được để từ từ tiến đến NHÂN VÕ ĐẠO, ước mong làm những ngọn đuốc soi đường cho những ai muốn tìm về chân bản thể của chính mình hầu  mang hòa bình đến cho nhân loại.

 Võ Sư Nguyễn Tiến Hóa  (817 ) 521 – 8002

               “  Dù cho lưu lạc chốn tha phương

                   Góp sức cùng nhau dựng võ đường

                   Nung chí cháu con dòng Lạc Việt

                   Sáng danh tiên tổ  gốc Hùng Vương

                   Thân hình rèn tập thêm cường tráng

                   Đức hạnh trau dồi  vững kỷ cương

                   Từ ái con tim, tay thép luyện

                   Ngày mai về dựng lại quê hương.”