Đặc Tính Văn Hóa Trong Võ Học Việt Nam
Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng (1970)


I.                 Khái Niệm:

Từ trước đến nay, từ ngữ văn hóa thường được các học giả định nghĩa khác nhau, mỗi người có một khái niệm. Tựu trung, ta có thể đúc kết vào 2 cách định nghĩa chính:

1.      Văn hóa là phần kết tinh của năng lực con người trong việc sáng tạo ra những điều mới lạ (Văn), để biến đổi (Hóa) ngoại cảnh và đồng thời cả thân tâm mình nữa.

2.      Văn hóa là một tổng hợp những kiến thức, những công trình kiến tạo, những cơ cấu xã hội, tôn giáo v.v... biểu thị cho một xã hội.

Như vậy, văn hóa được hiểu theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp; rộng có nghĩa như sinh hoạt; hẹp có nghĩa như một tổng hợp những tri thức (tri: hiểu, thức: biết), những cơ cấu xã hội.

Người Đông phương ta thường "hiểu" danh từ văn hóa theo nghĩa giới hạn (văn: dáng vẻ sáng, đẹp; hóa: giáo dục, chuyển hóa, là những gì tốt đẹp cần phải giáo hoá, chuyển hóa. Ví như dòng nước trong (văn) phải liên tục chảy "hóa" vì nước mới tốt lành, còn nếu đọng vào một chỗ trũng sẽ trở thành ao tù, nước độc hại không dùng được. Với cả hai nghĩa trên, võ học Việt Nam được hiểu theo khái niệm nào  

Trong cả hai khái niệm, võ học đều có chỗ đứng của nó. Nếu hiểu văn hóa là sinh hoạt, võ học cũng là một ngành sinh hoạt xã hội, có diễn trình của nó. Nếu hiểu văn hóa là một tổng hợp kiếm thức hay công trình kiến tạo của xã hội, võ học cũng là một ngành học, có những công trình kiến tạo riêng trong guồng máy sinh hoạt chung của xã hội Việt Nam.

Để khẳng định đặc tính văn hóa trong võ học Việt Nam, chúng ta lần lượt tìm hiểu thêm về:

1.      Vai tuồng võ học trong sinh hoạt văn hóa.

2.      Các thời kỳ võ học.

3.      Võ học Việt Nam hiện nay.

II. Vai Tuồng Võ Học Trong Sinh Hoạt Văn Hóa Việt Nam:

Nếu chúng ta hiểu định nghĩa danh từ "võ" là "dùng" sức mạnh để chế phục như cách định nghĩa thông thường của một số tự điển, chúng ta cũng thấy ngay vai tuồng của võ học gắn liền vào tiến hóa sử nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng: dùng "sức mạnh" để chế phục thiên nhiên, để chế phục lẫn nhau (con người với con người, con người với bộ tộc, bộ tộc với bộ tộc, quốc gia với quốc gia v.v...). Nếu chúng ta định nghĩa danh từ "võ" xa hơn một chút, là "kỹ thuật dùng sức mạnh để chế phục," chúng ta sẽ nâng "võ" lên một trình độ cao hơn: trình độ của kỹ thuật, trước khi chuyển sang học thuật (võ học).

Trong trường hợp thứ nhất, việc "dụng võ" tức việc "dùng sức mạnh để chế phục" cũng được phân biệt thành hai loại "sức mạnh":

  • Sức mạnh vật chất (force matérielle): cơ thể hoàn bị, lục phủ ngũ tạng, ngũ quan đều tốt, kỹ thuật dụng võ cao, võ khí yểm trợ (gậy, dao, kiếm, côn, súng v.v...) nhiều hiệu năng.

  • Sức mạnh tinh thần (force spiritualle): tâm hồn thư thái, rỗng không, tinh thần tráng kiện, tình cảm điều hòa, ý thức sung mãn v.v...

Trong trường hợp thứ hai, việc "dụng võ," tức "kỹ thuật dùng sức mạnh để chế phục" sẽ gồm có:

  • Kỹ thuật dụng võ (võ thuật).

  • Quan niệm dụng võ (dụng võ với mục đích gì - xấu hay tốt và bằng những phương tiện nào, trong những điều kiện nào).

  • Ý thức dụng võ (tại sao phải dụng võ, dụng võ để giải quyết sự việc gì, cùng với ai, chống ai, trong những điều kiện chống đối ra sao).

Tất nhiên, chúng ta định nghĩa võ học theo trường hợp thứ hai, vì võ học Việt Nam đã được nâng lên một trình độ cao, và đương nhiên trở thành một bộ môn học thuật trong sinh hoạt văn hóa.

CÁC ĐẶC TÍNH TỔNG QUÁT:

Nhận chịu ảnh hưởng của các biến cố lịch sử từ ngày lập quốc, võ học Việt Nam mang các đặc tính tổng quát dưới đây:

Đặc tính 1: Phản ánh sinh hoạt thiên nhiên:

Khác với quyền Anh phản ánh và kết tinh những cử động nhân thân thuần túy, võ học Việt Nam mang đặc tính phản ánh sinh hoạt thiên nhiên, một đặc tính võ học mà các bộ tộc du mục thường có.

Đặc tính này được thể hiện rõ rệt nhất là những hình vẽ trên mặt trống đồng mở đầu thời đại đồ đồng tìm thấy ở Ngọc Lũ, Đông Sơn (Thanh Hóa), trong đó có những hình khắc những người ăn mặc dị kỳ nhảy nhót tung tăng giữa đàn nai và loài thủy điểu đang bay. Họ cầm ở tay những cái sanh để gõ nhịp cho điệu múa, và gần đó có những người thổi kèn và đánh trống hòa nhịp. Cạnh nhà sàn, có những người mang lông chim phất phới đang cầm chày giã gạo hòa nhịp với điệu múa chung. Vòng quanh mặt trống đồng là những chiến sĩ mang rìu, cung tên và lao, trên người giắt những lông chim dài.

Sự nhảy nhót bắt chước điệu bộ của nai đã phản ánh những thế nhảy của người thưọng cổ, cũng như việc giắt lông chim và làmnhững cử động bằng tay kiến ta nghĩ đến những thế "đập cánh" bắt chước chim của người thượng cổ. Những chiến sĩ mang rìu, cung tên và lao, khiến ta nghĩ đến việc biết sử dụng võ khí (thô sơ) yểm trợ cho sức mạnh, để rồi theo thói quen lâu ngày, sẽ kết tinh thành những thế rìu (búa bửa củi) đánh trên bộ, những thế lao đánh cả trên bộ, trên mặt nước và phóng xuống dưới nước, những cách bắn trúng đích với những đối nhân hay đối vật ở xa bằng cung tên.

Cổ sơ, tiền nhân ta đã cố gắng nhận xét, chiêm nghiệm những sinh hoạt thiên nhiên để vận dụng vào bản năng tự vệ và khả năng đấu tranh để tồn tại. Có thể nói: tất cả những sinh hoạt thiên nhiên đều được ghi nhận, chiêm nghiệm, bắt chước và biến chế thành những thế võ sơ khai. Ví dụ:

  • Nhìn những ngọn lửa bập bùng, bắt chước và biến chế thành những điệu vũ "uốn mình như ngọn lửa" và những thế nhảy, tấn công, né tránh "uốn mình như ngọn lửa" trong võ học.

  • Nhìn những đàn nai chạy nhảy, cố bắt chước và biến chế thành những thế chạy nhảy "như nai" rượt theo hay chạy trốn đối nhân, đối vật.

  • Nhìn cây đổ, cố bắt chước và biến chế thành những thế ngã thăng bằng ít đau.

  • Nhìn đàn chim đập cánh, bắt chước vàbiến chế thành những đòn, thế, miếng nhanh nhẹn và uyển chuyển như cách đập cánh của chim v.v...

Đặc tính 2: Kết tinh thói quen dùng sức mạnh:

Trong cuộc đấu tranh liên tục để sinh tồn, tiền nhân chúng ta bắt buộc phải luôn luôn dùng sức mạnh để thắng đối nhân và đối vật. Sự vận dụng sức mạnh lâu ngày tất nhiên sẽ thành thói quen, và kết tinh thành những đòn, thế, miếng của võ học.

Và, cũng như những bộ môn học thuật khác, võ học Việt Nam nhận chịu ảnh hưởng của tiến hóa sử. Ngay từ thời đại đồ đá, tiền nhân chúng ta đã khám phá ra hiệu năng của việc sử dụng một thứ sức mạnh khác ngoài sức mạnh nhiên hữu của cơ thể: từ một hòn đá ném xuống nước đến việc mài những chiếc dùi, những chiếc dao bằng đá để chiến đấu chống đối nhân và đối vật, qua các di tích đồ đá đã tìm thấy ở Đông Sơn và Bắc Sơn. Tiến bộ hơn một chút, người Việt thượng cổ cắm những mũi nhọn đá mài vào gậy, để làm thành thói quen, thành kinh nghiệm chiến đấu, và lần lần được sáng tạo, chế biến thêm thành đòn, thế, miếng, rồi tổng hợp lại thành bài. Suốt trong lịch sử Việt Nam, kỹ thuật sử dụng dáo và mâu đã trở thành một bộ môn võ thuật chính trong các triều đại phong kiến, dáo và mâu đã đóng một vai tuồng không nhỏ trong việc giữ nước và dựng nước. Thông thường, khi nói đến người lính Việt Nam trong thời phong kiến, chúng ta thường mường tượng đến hình ảnh một người có thể khôngmang gươm đao trong tay để sử dụng khi xung trận. Sau dáo và mâu, người Việt thời thượng cổ đã biết chế biến những chiếc thuẫn bằng cây hoặc bằng lá đan để ngăn đỡ khí giới tấn công của địch. Sau đó, thời đại đồ đồng đã giúp võ học tiến thêm một bước nữa về kỹ thuật tấn công và tự vệ: tất cả các loại võ khí đều chuyển từ đồ đá sang đồ đồng, đặc biệt nhất là những chiếc thuẫn được chế biến bằng đồ đồng để tăng cường công dụng bảo vệ cơ thể được nhiều hơn. Cùng với việc chuyển biến võ khí từ đồ đán sang đồ đồng, người Việt trong thời kỳ này đã biết tổ chức chiến đấu tập thể có đoàn ngũ, mà hiệu lệnh tiến thoái là những tiếng trống đồng. Việc đào được chiếc trống đồng ở làng Ngọc Lữ, huyện Đông Sơn, hữu ngạn sông Mã (Thanh Hóa) với những nét khắc có đủ cả chiến sĩ và khí giới thô sơ thời đó, đã chứng tỏ rằng kỹ thuật dụng võ của tiền nhân chúng ta trong thời đại này được tổ chức rất quy củ.

Sang đến thời đại đồ sắt, kỹ thuật dụng võ đã tiến một bước nhảy vọt: ngoài những khí giới có sẵn từ trước được biến chế bằng đồ sắt, tiền nhân chúng ta còn phát minh ra thêm một thứ võ khí mới rất tiện dụng trong thời đó: kiếm (gươm). Vì cổ sử bị thất lạc nhiều sau những thời kỳ bị ngoại bang đô hộ nên chúng ta không thể có đủ tài liệu minh chứng, nhưng qua những thần thoại cổ, chúng ta cũng được biết lờ mờ rằng kỹ thuật sử dụng kiếm có từ đời Lạc Long Quân.

Thần thoại về việc Lạc Long Quân sử sụng sắt được kể lại:

"... Vùng đất Lạc thời đó có con Ngư tinh tác hại làm đắm rất nhiều thuyền chài. Khi Lạc Long Quân đến nơi, nghe chuyện tác hại của Ngư tinh mới quyết ra tay diệt trừ. Thần bảo đóng một chiếc thuyền thật lớn, cho rèn một khối sắt nung đỏ rồi chèo đến cửa hang con thủy quái. Ngư tinh quen thói há miệng chực đón mồi, không ngờ bị Lạc Long Quân liệng khối sắt nung đỏ vào..." (Lĩnh Nam Trích Quái, Việt Nam Văn Học Toàn Thư của Hoàng Trọng Miên, Q 1, trang 88).

Thần thoại về việc Lạc Long Quân sử dụng kiếm (gươm) được kể lại:

"... Ở vùng núi Tản Viên có Hồ tinh tác quái làm hại dân lành. Lời ta thán đến tai Lạc Long Quân, thần mới tìm đến động huyệt Hồ tinh. Thấy có người táo bạo đến hang, Hồ tinh xông ra làm dữ, bị Lạc Long Quân chặn lại. Một cuộc giao chiến khủng khiếp xảy ra. Hồ tinh giở các phép thuật biến hoá ra nhiều hình trạng toan hại đối phương. Song gặp phải tay đối thủ cao cường và mưu trí, con quái vật không làm gì nổi nên cuối cùng đành bỏ chạy. Lạc Long Quân đã cho bao vây kín chặt quanh cửa hang, nổi lửa làm hàng rào chặn Hồ tinh lại, rồi dùng gươm sắt chém chết quái vật, hiện nguyên hình là một con cáo to lớn có chín đuôi..." (Lĩnh Nam Trích Quái, Việt Nam Văn Học Toàn Thư của Hoàng Trọng Miên, Q 1, trang 89).

Thần thoại về sự tích Thánh Gióng đuổi giặc Ân cũng nhắc lại chuyện ngựa sắt, gươm sắt, nón sắt. Cũng như thần thoại về truyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh cũng đề cập tới chuyện "lưới sắt". Nếu quả những thần thoại này dựa vào một vài sự kiện lịch sử có giá trị, chúng ta có thể kết luận được rằng việc sử dụng võ khí bằng sắt trong thời đó đã nâng cao trình độ võ học Việt Nam lên một bậc nữa: chế tạo được gươm sắt, và sau đó, là các loại khí giới bằng sắt khác nữa như cung tên v.v...

Tất cả những biến chế phát minh lịch sử này đòi hỏi những khả năng sử dụng mới. Tất nhiên, việc sử dụng lúc đầu có thể vụng về, nhưng do những kinh nghiệm và thói quen lâu ngày, đã kết tinh thành một thứ kỹ thuật sử dụng mới, làm thành một nguồn sức mạnh mới. Đòn, thế, miếng, rồi bài côn, đao, dáo, mác, mâu, kiếm v.v... của võ học Việt Nam hình thành lần lần, tạo thành những đặc tính văn hóa đặc biệt cho nền võ học Việt Nam.

Đặc tính 3: Khả năng sáng tạo và phát minh những đòn, thế, miếng mới:

Nhờ địa thế đặc biệt "cửa ngõ" và "hành lang" Đông Nam Á, nên Việt Nam luôn luôn được tiếp xúc với các trào lưu văn hóa từ các nước ngoài đem tới, trong đó có cả võ học.

Qua những thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, Việt Nam đã lãnh hội được nền võ học Trung Quốc, mà cụ thể nhất là võ học Thiếu Lâm và Võ Đang. Qua những thời kỳ Nam tiến, Việt Nam đã trau giồi được thêm các ngành võ học Chiêm Thành, Lão Qua (Lào), Bồn Man và Chân Lạp (Cambodge). Qua thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam đã du nhập được nền võ thuật Anh quốc (boxe Anglasise-chỉ sử dụng trái đấm, nắm tay) và Pháp quốc (boxe Francaise- lối đánh cả tay lẫn chân). Và tới nay, sau khi tranh thủ được độc lập và giao tiếp tự do với các nước ngoài, Việt Nam lần lượt du nhập được các ngành võ học Nhu Thuật (Ju-jitsu), Nhu Đạo (Judo), Không Thủ Đạo (Karatédo), Thái Cực Đạo - Túc Quyền Đạo (TaeKwonDo) hay Võ Đại Hàn, Du Già Môn (Yoga).

Cùng với các môn võ cổ truyền của dân tộc như đô vật (thịnh hành nhất triều đại nhà Lý), quyền thuật, kiếm thuật, côn pháp, tiên pháp (nổi tiếng nhất là ở vùng Bình Định) - "Ai về Bình Định mà coi, con gái Bình Định múa roi đi quyền", võ học Việt Nam càng ngày càng tinh tiến. Nhưng cái khó ở đây không phải là võ học Việt Nam có thâu thái, lãnh hội được các tinh hoa võ học ngoại quốc với các tinh hoa võ học truyền thống của dân tộc Việt. Ví dụ: côn quyền Thiếu Lâm rất nổi tiếng tại Trung Quốc vì thích hợp với những người có thể tạng cao lớn. Nhưng đối với người Việt, đại đa số có thể tạng bé nhỏ, liệu còn có thể thích hợp hay không, hoặc nếu có thích hợp thì thích hợp tới mức độ nàỏ

Cũng như:

  • Võ học Chiêm Thành, Lão Qua, Bồn Man, Chân Lạp thường thích hợp với lối đánh trong rừng hoặc những nơi có nhiều chướng ngại, liệu còn có thể áp dụng hữu hiệu ở trên bãi trống hay không?

  • Quyền Anh thích hợp với những người Tây phương, vì thể tạng họ to lớn, cách tay dài, liệu còn có thể thích hợp cho những người Việt Nam vốn dĩ có thể tạng nhỏ bé, cánh tay ngắn hay không?

  • Nhu Đạo và Nhu Thuật vốn thích hợp với thể tạng mập lùn của người Nhật bằng những thế đánh quăng quật trên mặt tuyết và đất mềm (vì lạnh), liệu còn có thể thích hợp với thể tạng người Việt vốn bé nhỏ với người Tây Phương, nhưng gầy ốm hơn người Nhật, trên những đấu trường có nền rắn cứng hay không?

  • Túc Quyền Đạo vốn thích hợp với người Đại Hàn có cặp giò dài nên tiện dụng về chân hơn tay, liệu còn có thể thích hợp với thể tạng người Việt thiếu hẳn cặp giò dài hay không?

Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi những người ham chuộng võ học những khả năng suy luận, tổng hợp và kết tinh thật tế nhị và phức tạp. Có vận dụng đúng mức những khả năng suy luận, tổng hợp và kết tinh thì võ học gia mới có thể vận dụng được khả năng sáng tạo và phát minh của mình vào võ học, để vừa chuốt lọc những tinh hoa võ học du nhập, vừa khai triển những tinh hoa võ học truyền thống của dân tộc Việt. Đó là những đặc tính vẫn có trong võ học Việt Nam, mà nhờ những công trình nghiên cứu, học hỏi của các vị võ sư tiền bối, võ học Việt Nam mới có thể tăng tiến được như ngày nay.

III.        Các Thời Kỳ Võ Học:

Có thể so sánh ngay quá trình sinh thành của võ học Việt Nam với quá trình sinh thành của một con người: từ thời kỳ sơ khai đến thời kỳ triển khai, để rồi bước sang thời kỳ thăng hóa.

A.    Thời Kỳ Sơ Khai (từ 2879 trước công nguyên tới 1009)

Thời kỳ sơ khai của võ học khởi đầu từ thời kỳ lập quốc nguyên thủy của người Việt. Lúc đó, con người còn sống hoang dã, tâm hồn còn chất phác, thô sơ, nhờ luôn luôn gần gũi với thiên nhiên, phải luôn luôn tranh đấu với các đối nhân, đối vật, nên ý hướng dụng võ lúc đó chỉ là ý hướng dùng sức mạnh để thực hiện các nhu cầu khẩn thiết trong đời sống: Tự vệ - Săn bắn - Chinh phục.

Chính kinh nghiệm và cảm hứng trong các nhu cầu đấu tranh để sinh tồn này đã lần lần hình thành nền võ học sơ khai của Việt Nam qua những cảnh thái điển hình:

  1. Sức mạnh kỳ diệu của thiên nhiên: gió, bão, sấm sét làm rung chuyển trời đất, làm sụp đổ và thay đổi cả cảnh vật, kể cả sự nuôi sống và giết chết (mưa, gió, bão làm cỏ rừng xanh tươi, sông hồ đầy nước, cho nước để uống, nhưng làm sụp núi, đổ cây khiến nhiều sinh vật phải thiệt mạng v.v..)

  2. Sức mạnh kỳ diệu của lửa: lửa vừa nuôi sống vừa giết chết, với những hình tượng chuyển biến uyển chuyển muôn hình, muôn thể.

  3. Sức mạnh kỳ diệu của nước: nước vừa nuôi sống vừa giết chết, tuy mềm mại nhưng là khắc tinh của lửa, với những hình thái muôn hình muôn thể, động tĩnh vô cùng.

Chính trong thời kỳ này, con người vừa yêu mến thiên nhiên vừa kinh sợ thiên nhiên, nên luôn luôn hướng về thiên nhiên, coi thiên nhiên là những vị thần có toàn quyền ban phước hay giáng họa. Võ học trong thời kỳ này hoàn toàn bắt chước ở thiên nhiên hay do sự quan sát thiên nhiên mà ra. Nếu chúng ta có thể nói: con người trong thời kỳ này là con người của bản năng sinh tồn, tức luôn luôn dùng sức mạnh để đấu tranh sinh tồn, ta cũng có thể nói: chính những công cuộc đấu tranh để sinh tồn này đã gây cảm hứng rất nhiều cho các bộ môn văn hóa, để cùng hòa điệu vào guồng máy tiến hóa chung của xã hội.

Trong thời kỳ này, các bộ môn nghệ thuật đã nhận chịu nhiều ảnh hưởng của võ học là:

  1. Điêu khắc: trạm trổ những hình vẽ người và vật trong tư thế biễu diễn các thế võ trong hang đá, trên đồ vật và trong đền thờ.

  2. : chế biến những điệu vũ gợi hùng khí cho mọi người, đôi khi dùng cả võ khí sắc bén trong cuộc vũ như những điệu vũ xuất quân, những điệu vũ khao quân (mừng thắng trận), những điệu vũ luyện quân, những điệu vũ ca ngợi sức mạnh của thiên nhiên và bộ tộc...

  3. Nhạc: trống trận, hò hành quân, hò thúc quân, hò sáp chiến, rút kinh nghiệm từ những uy lực vĩ đại của thiên nhiên: gió, bão, sấm sét, biển reo, sông chảy cuồn cuộn, thác đổ sầm sập v.v...

  4. Họa: dùng hình nét để ghi lại những hình dáng linh động của người luyện võ, diễn võ và dụng võ và những vật thiện dụng trong nghề dụng võ như qua, kiếm, mâu, kích, voi, ngựa v.v...

  5. Văn thơ: những bài hát hành quân (như bài hát leo núi từ đời Trưng Vương kháng Hán, những bản cáo, hịch v.v...)

  6. Triết: du nhập các triết lý Nho, Đạo Phật vào sinh hoạt võ học.

Thời kỳ sơ khai của võ học Việt Nam có thể tạm ước tính từ thời Thượng Cổ đến hết nhà Tiền Lê (2879 trước công nguyên tới 1009).

B. Thời Kỳ Triển Khai (1010-1945)

Thời kỳ triển khai có thể được coi như thời kỳ phồn thịnh của nền võ học Việt Nam, khởi đầu từ đời nhà Lý đến hết Đệ Nhị Thế Chiến (tháng 8/1945). Trong thời kỳ này, võ học đã tiến từ kỹ thuật chiến đấu sơ khai sang chiến đấu tập thể, đã tiến từ ý niệm dụng võ thuần túy sang ý thức dụng võ thấm nhuần triết học.

Sự khai nguyên triều đại nhà Lý do Lý Công Uẩn, môn đồ của Sư Vạn Hạnh đã đưa triết lý nhà Phật vào võ học, từ luyện võ đến binh pháp (binh pháp Lý Thường Kiệt). Sang triều đại nhà Trần, việc thành lập song hành Giảng Võ Đường với Quốc Học Viện đã nâng cao võ học lên một trình độ cao tới mức phổ thông toàn quốc bằng quy chế cưỡng bách học võ cho cả các công chúa, phi tần tới lê thứ. Tinh thần tam giáo (Nho-Đạo-Phật) được kết hợp kỳ diệu trong thời kỳ này, và trở thành một ý thức dụng võ thấm nhuần nhiều tính chất võ sĩ đạo, giúp ích cho việc điều hành xã hội và kháng ngoại (chống Mông Cổ) không nhỏ.

Cũng từ hai triều Lý - Trần, võ học Việt Nam được kết hợp thêm với nhiều tinh hoa võ học nước ngoài, nhờ các cuộc chiến tranh tự vệ hay chinh phục, và hệ thống giao thương với các nước lân bang như Trung Hoa, Lão Qua, Chiêm Thành, Bồn Man, Chân Lạp, Xiêm La, Mông Cổ. Võ học trong hai triều đại này đã đương nhiên trở thành một tập tục của người Việt trong những buổi hội hè đình đám trong làng (nhất là những ngày hội đầu xuân), đều có những cuộc biễu diễn thể thao (đánh phết, đánh cầu, đu bay) và diễn võ (đấu vật, đấu côn, đấu trung bình tiên, đấu quyền), để khích lệ tinh thần thượng võ trong dân gian.

Cách đây trong vòng một thế kỷ, Việt Nam còn được du nhập thêm các ngành võ học nổi tiếng của Trung Hoa và Tây phương như: Thiếu Lâm, Võ Đang, Sơn Đông, quyền Anh, Nhu Thuật v.v... càng tô bồi thêm những chất liệu võ học đặc biệt cho nền võ Việt Nam.

  • Võ Thiếu Lâm ngoài những đòn, thế, miếng, bài bản linh hoạt, còn đem đến cho Việt Nam những tinh hoa võ triết đặc biệt khích lệ việc hình thành một nền võ đạo Việt Nam như các nguyên lý võ học: dĩ nhu thắng cương, dĩ tĩnh chế động, cứu khốn phò nguy...

  • Võ Võ Đang ngoài những môn thể dục thể thao vận dụng cho thân thể cường tráng (đã được áp dụng tại các trường trung, tiểu học Trung Hoa sau cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911) còn đem đến cho Việt Nam những tinh hoa võ triết đặc biệt của Đạo học: luyện ý, luyện khí, luyện tâm, luyện thân để điều hợp những mâu thuẫn (âm dương, thiện ác, nóng lạnh, phải quấy, tốt xấu v.v...) bằng Đạo thể.

  • Võ Sơn Đông ngoài những đòn thế, miếng, bài bản linh hoạt còn đem đến cho võ học Việt Nam lối sống giản dị, thanh đạm của người võ sĩ hành hiệp giang hồ, với tinh thần trọng nghĩa khinh tài cao trọng.

  • Quyền Anh, ngoài những nguyên tắc tập dượt và các đòn thế công thủ, còn đem đến cho nền võ học Việt Nam tinh thần thể thao tranh đấu thẳng thắn, tận tình của người Tây phương rút từ những nguyên lý chính nhân (honnête - homme) của xã hội Tây phương thời Trung Cổ.

  • Và, vào ngày kết thúc đệ nhị thế chiến, một số ngành võ học du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là môn Nhu Thuật (Ju-jitsu), Nhu Đạo (Judo) với tinh thần võ sĩ đạo đặc biệt của người Nhật.

Cũng trong thời kỳ này, việc luyện võ và thâu thái, tập hợp các tinh hoa võ học càng ngày càng thêm tinh tiến, vì những nhu cầu chiến tranh tự vệ và chiến tranh chinh phục. Nhất là trong thời Pháp thuộc, các vị cần vương văn thân và cách mạng của ta đều tính cực luyện võ để chống Pháp giành độc lập, với hy vọng rằng có thể lấy võ thuật để bù đắp những nhược điểm về kỹ thuật và phương tiện chiến tranh "chậm tiến" so với kẻ địch.

Trong thời kỳ triển khai võ học Việt Nam tuy đã phát triển mạnh mẽ để hình thành một nền võ đạo dân tộc, nhưng chưa kiện toàn được tổ chức này, phần vì những nỗ lực tranh thủ độc lập đã choán mất nhiều thiện chí, thời giờ và tài nguyên, nên võ học chỉ mới được coi là phương tiện chứ chưa thể nâng lên thành một bộ môn độc lập, phần vì việc thâu thái và kết hợp những tinh hoa võ học truyền thống và du nhập chưa đủ điều kiện thăng hóa (sublimer) thành một nền võ đạo Việt Nam.

C. Thời Kỳ Thăng Hoa (1946...)

Sau khi tranh thủ xong được nền độc lập, sau Đệ Nhị Thế Chiến, võ học Việt Nam mới có đủ điều kiện để hình thành một nền võ đạo. Cố Võ Sư Sáng Tổ Vovinam thành lập môn phái Vovinam chính là nhằm mục đích thể hiện niềm mơ ước đó.

Phong trào học "võ tự vệ" (tức Vovinam nhập môn) và Vovinam được phát triển ồ ạt trong khoảng 1945-1946, với những võ trường ngoài trời hàng chục ngàn võ sinh như võ trường của Việt Nam Đại Học Xá Bạch Mai Hà Nội. Trong thời kỳ này, nhiều khẩu hiệu thượng võ được các môn sinh tung ra cùng với lòng nhiệt thành: "người Việt Nam học Vovinam", "Học Vovinam là yêu nước" v.v.. Tuy nhiên, việc hình thành một nền võ đạo còn phải tùy thuộc ở nhiều điều kiện khác nữa, như các vấn đề: tổ chức, điều hành, thảo kế hoạch, kiện toàn môn quy và lý thuyết võ đạo.

Bởi vậy, ngoài chương trình huấn luyện võ thuật, Cố Võ Sư Sáng Tổ Nguyễn Lộc vẫn ngày đêm ra công nghiên cứu các lý thuyết võ đạo và triết thuyết du nhập cùng với các môn đệ của Ông. Rồi trải qua bao nhiêu biến cố lịch sử, đến sau ngày chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1963, môn phái Vovinam đã chính thức bước sang một giai đoạn mới: chuyển từ Vovinam sang thành Việt Võ Đạo, tức một căn bản về Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan Việt Võ Đạo để hướng dẫn tinh thần võ đạo cho các môn sinh.

Tới nay, ý thức hệ Việt Võ Đạo đã được kiện toàn, cùng với những môn quy và chương trình hoạt động quy mô sâu rộng. Điểm đặc biệt của việc hình thành Việt Võ Đạo là: tuyệt đối không làm chính trị, nhưng cũng không ngăn cấm các môn sinh hoạt động chính trị với tư cách cá nhân công dân của họ, trong phạm vi quyền công dân hiến định và luật định.

IV.          Đặc Tính Văn Hóa Trong Võ Học Việt Nam Hiện Nay:

Cũng như các ngành sinh hoạt khác của xã hội, võ học Việt Nam đã nhận chịu ảnh hưởng rất nhiều ở các biến cố lịch sử, để lúc thăng lúc trầm, với từng biến cố lịch sử.

Nhưng cũng khác với một số bộ môn sinh hoạt nghệ thuật của xã hội Việt Nam, võ học Việt Nam một đôi khi tuy bị đàn áp trong những thời kỳ ngoại thuộc, nhưng vẫn giữ nguyên được những tiềm lực quật cường của người Việt, nên chẳng những không chịu chung số phận bị thui chột như các ngành văn học nghệ thuật khác, mà còn đứng ra đảm nhiệm vai tuồng kháng ngoại cứu nước để phục hồi lại nếp sống của người Việt. Như dưới thời Bắc thuộc, Minh thuộc, và Pháp thuộc, các ngành sinh hoạt văn hóa bị tê liệt đến nỗi gần như bị huỷ hoại khi các quan lại cai trị Tàu muốn đồng hóa người Việt từ lối để tóc, y phục tới tiếng nói. Thậm chí những sách vở của chúng ta, chúng cũng hủy hoại tịch thu đem về chính quốc. Trong những bối cảnh lịch sử ấy, võ học tuy cũng bị đàn áp trên bề mặt nhưng vẫn thoát ra, vươn lên với tinh thần tự cường, bất khuất, để đảm nhiệm vai tuồng lãnh đạo những phong trào khởi nghĩa giành độc lập. Trong thời đại Bắc thuộc, hình ảnh hào hùng của hai Bà Trưng, rồi Triệu Trinh Nương cầm kiếm chỉ huy ba quân vẫn là một hình ảnh thượng võ đẹp lạ hiếm có trong lịch sử các nước khác. Rồi hình ảnh uy dũng khác như Mai Hắc Đế, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Huệ v.v... với thanh kiếm trong tay hoặc đeo bên sườn, luôn luôn là những hình ảnh tiền võ đạo đẹp hùng tráng như thần thoại, khiến mọi người khi hình dung đến đều đem lòng kính ngưỡng. Đó chính là hình ảnh "trỏ ngang ngọn dáo vào ngàn hang beo" (Chinh Phụ Ngâm) và hình ảnh "kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma" (kiếm mài mấy thuở đẫm trăng sao- Đặng Dung) vẫn là hình ảnh sáng đẹp tuyệt vời của người Việt Võ Sĩ trong những bối cảnh bi thảm của đất nước.

Được thâu thái, tổng hợp và kết tinh những tinh hoa võ học nước ngoài vào nền võ học truyền thống, võ học Việt Nam có những đặc tính văn hóa:

Đặc tính 1: Võ học Việt Nam thấm nhuần dân tộc tính:

Đặc tính này, tuy bề ngoài cũng tương tự như các bộ môn học thật khác, nhưng chính đó là niềm kiêu hãnh to lớn của dân tộc Việt Nam, khi chúng ta nhìn ra nhiều quốc gia trên thế giới- kể cả những quốc gia có nền kinh tế phồn thịnh - vẫn chưa có một nền võ học dân tộc, phải tự bỗ khuyết bằng cách du nhập võ học ngoại quốc làm vốn liếng võ học dân tộc.

Võ học Việt Nam mang nhiều dân tộc tính, chính là nhờ ở những kinh nghiệm và khả năng sáng tạo đặc biệt của Việt tộc trong suốt nhiều ngàn năm dựng nước, giữ nước và mở nước đến nay. Dân tộc tính trong võ học Việt Nam không những được biểu dương ở các môn đô vật, bài kiếm, bài côn, bài quyền thịnh hành hiện nay, mà còn biểu lộ ở cả những kho binh pháp - một trình độ khác của võ học - Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, chứng tỏ tính chất sáng tạo đặc biệt của người Việt trong truyền thống võ học Việt Nam.

Đặc tính 2: Võ học Việt Nam tiềm ẩn tổng hợp tính:

Đặc tính này chính là nhờ ở vị trí và địa thế đặc biệt của Việt Nam mà có: luôn luôn phải tiếp xúc với các trào lưu văn hóa nước ngoài, tức thường xuyên ở vào thế du nhập và thế du xuất các trí thức văn hóa để: một là nhận chịu đồng hóa trước những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, hai là cố gắng tìm ra một con dường tự tồn độc lập đặt biệt: vẫn thâu thái những tinh hoa văn hóa (kể cả võ học) nước ngoài, mà vẫn bảo vệ và phát huy được những tinh hoa văn hóa truyền thống, để vừa tô bồi thêm cho vốn liếng truyền thống văn hóa dân tộc mỗi ngày một thêm phong phú vừa thoát ra khỏi được hiểm họa bị đồng hóa văn hóa khi không giữ được dân tộc tính.

Tiền nhân chúng ta đã cố gắng đi theo con đường thứ hai, một con đường vô cùng khó khăn và đầy trở ngại, nhưng đã làm được, nhờ ở những công trình tổng hợp tinh hoa văn hóa, trên nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam. Võ học Việt Nam - cũng là một bộ môn học thuật trong các sinh hoạt văn hóa - cũng ở trong tình trạng trên, nên đã mang nhiều tổng hợp tính kỳ diệu trên các lĩnh vực:

1. Về võ thuật:

Vẫn thường xuyên học hỏi, chiêm nghiệm và thâu thái tinh hoa võ học nước ngoài, hợp với thể tạng người yếu và tinh thần truyền thống Việt Nam, đồng thời vận dụng thêm óc sáng tạo chế biến, hóa giải, để trở thành những đòn thế, miếng, bài đặc thù thích hợp với thời đại.

2. Về triết học:

Cũng như các bộ môn văn hóa, võ học truyền thống Việt Nam nhận chịu nhiều ảnh hưởng của tinh thần tam giáo đồng nguyên (Nho-Đạo-Phật), và sau đó, nhận chịu thêm ảnh hưởng của tinh thần bác ái Thiên Chúa Giáo, và tinh thần chính nhân của nếp sống Tây phương thời Trung Cổ.

Chúng ta có thể tóm lược những nét khái quát về tinh thần tam giáo được đem vào võ học Việt Nam như sau:

A.     Với Nho giáo:

  • Quân tử: lo đạo chẳng lo nghèo (ưu đạo bất ưu bần)

  • Nhân giả: không cầu sống để hại người, có thể chết để thành bậc nhân (Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân)

  • Đại trượng phu: giàu sang không dâm dật, nghèo hèn không đổi tiết, trước uy vũ không khuất phục (Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất)

  • Nhiệm thế: hành hiệp giúp đời, lấy lòng thẳng báo oán, lấy đức báo đức (Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức)

B.     Với Đạo giáo:

  • Chí nhân (Trang Tử): quên mình (Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô danh, thánh nhân vô công)

  • Nhu thắng cương: lấy mềm thắng cứng, lấy yếu thắng mạnh (Dĩ nhu thắng cương, dĩ nhược thắng cường)

  • Bất tranh: khắc kỷ, không tranh thắng (Lão Tử), chỉ có không tranh giành với ai, còn ai tranh giành với mình (Phù duy bất tranh, mạc năng thiên hạ, hà dữ chi tranh)

  • Yếm thế (Lão Tử): việc nên, thân lui, đó là đạo trời (công thành, thân thoái thiên chi đạo)

  • Xuất thế (Trang Tử): tiêu diêu du.

C.     Với Phật giáo:

Từ bi: thương tất cả chúng sanh, hỷ xả, sẵn sàng hy sinh cho người khác, cố gắng tu tập thoát khỏi nghiệp và ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức)

  • Lấy thiện chế ác

  • Lấy tĩnh chế động

  • Lấy yêu thương chế thù hận.

3.Về y lý:

Võ học Việt Nam tuy ảnh hưởng nhiều ở y lý Trung Quốc, nhất là ngành cơ thể học và khoa châm cứu học (về các huyệt đạo), nhưng vẫn hòa điệu với nền y học căn bản của dân tộc (điển hình: thuốc Nam - đối chiếu với thuốc Bắc, tức y học truyền thống của Trung Quốc).

4.   Về binh pháp:

Binh pháp là một trình độ cao của võ học, đưa võ học vào quân sự, dùng võ học vào chiến tranh, nên có thể nói rằng binh pháp là một trình độ võ học đi vào tổ chức xã hội để bảo vệ hay điều động nhân sự của xã hội ấy vào những mục tiêu phải dùng bạo lực. Mặc dù tiền nhân chúng ta và cả chúng ta ngày nay nữa đã nhận chịu nhiều ảnh hưởng của các binh pháp gia nổi tiếng như Tôn Võ, Ngô Khởi, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Clausewitz v.v... nhưng không phải vì thế mà không sáng tạo, bổ túc, chế biến thêm để thích hợp với dân tộc Việt.

Binh pháp Lý Thường Kiệt với những chiến công lừng lẫy thắng Tống Bình Chiêm, đã trở thành một thứ binh pháp lý tưởng khiến người Tàu phải ra công nghiên cứu. Binh pháp Trần Hưng Đạo với 3 lần đại thắng Mông Cổ, đã làm ngạc nhiên cả thế giới về khả năng tự vệ của người Việt. Đây là một ngành võ học đặc biệt làm vinh dự cho dân tộc Việt Nam góp phần vào xây dựng lịch sử không nhỏ.  

V.   Kết Luận

Khác với một số người có quan niệm sai lầm là võ học hoàn toàn biệt lập với văn hóa, chúng ta đã thấy một kết luận được hình thành trái ngược hẳn: võ học không những là một bộ môn văn hóa, góp phần không nhỏ vào tiến trình tiến hóa của dân tộc và nhân loại, xây dựng, bảo vệ và khai triển xã hội, mà ngay trong tự thân võ học, còn mang rất nhiều đặc tính văn hóa.

Những đặc tính này, không phải tới bây giờ chúng mới đến với chúng ta trong bối cảnh của một quốc gia độc lập, mà chúng thường xuyên có mặt tiềm ẩn trong mọi hoàn cảnh lịch sử, từ thời lập quốc đến nay. Những đặc tính ấy, sơ khai mới là những kỹ thuật rồi kiện toàn dần, trở thành một bộ môn học thuật đặc biệt, có ý thức hệ rõ rệt của một nền võ đạo, với những triết tính quán hợp những tinh hoa văn hóa dân tộc với những tinh hoa văn hóa nhân loại, tiến kịp thời đại mà tiêu biểu là Vovinam-Việt Võ Đạo.

Bảo vệ và phát huy những đặc tính ấy: đó là một công trình lâu dài của toàn thể môn đồ Việt Võ Đạo kế tiếp nhau để duy trì mãi mãi những công trình học hỏi, kết hợp và sáng tạo của tiền nhân chúng ta trong mọi biến cố thăng trầm của lịch sử  

 

 


 

..