Giải mã giếng cổ Hội An


Trên các giếng cổ Hội An đều có bàn thần giếng vì quan niệm nó được một vị thần bảo hộ. Vì vậy, giếng cổ là bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa vật thể Hội An.

Hội An còn khoảng 80 chiếc giếng cổ. Hầu hết chúng phân bố tập trung ở khu vực dọc bờ bắc sông Đế Võng (thuộc thôn 5, 6 xã Cẩm Thanh, khối 4, phường Thanh Hà), trong khu phố cổ, số còn lại nằm rải rác ở nhiều nơi. Các giếng này thường nằm cách sông chừng 50 - 150 m, đặc biệt nhiều giếng chỉ cách sông 6 - 10 m.


Một chiếc giếng cổ rêu phong ở Hội An.


Nếu như ở vùng ven, giếng nằm trong các nhà dân và phổ biến kiểu dáng hình tròn thì tại khu phố cổ xuất hiện nhiều nhất là giếng hình vuông và trên tròn dưới vuông. Các giếng này nằm trong khuôn viên của các di tích tín ngưỡng như hội quán, nhà thờ tộc, đình, miếu của người Hoa Minh Hương, người Hoa Ngũ Bang. Chất liệu để xây giếng chủ yếu là gạch, đá. Người xưa bố trí, sắp xếp vật liệu theo những cách khác nhau tùy theo từng kiểu và thường dùng khung gỗ lim ở dưới cùng để bảo vệ. Những chiếc giếng này có niên đại không đồng nhất, hình thành ở nhiều thời điểm khác nhau của nhiều thế kỷ.


Một số nhà nghiên cứu cho rằng, kiểu giếng vuông và trên tròn dưới vuông là giếng Chăm, được xây dựng từ trước thế kỷ 15, khi người Việt đến cư trú đã kế thừa nhằm phục vụ nhu cầu của mình. Số khác thì người Hoa và người Việt “học hỏi kỹ thuật” của người Chăm mà xây nên. Tuy có nhiều kiểu dáng khác nhau nhưng tất cả các giếng chung đặc điểm là có khung gỗ vuông (bằng lim) ở dưới thành gạch. Khung gỗ này giữ vai trò quan trọng đảm bảo tuổi thọ của giếng, giữ cho thành giếng ổn định lâu dài, không bị sụt lún.



Nhiều người vẫn "trung thành" với nước giếng cổ.


Thành giếng là những viên gạch được xếp chồng lên nhau, không có vữa kết dính, tạo ra những khe hở cho nước trong lòng đất chảy vào, duy trì mực nước trong giếng. Đặc biệt, trên các giếng này đều có các bàn thờ để thờ “thần giếng”. Theo chuyên viên nghiên cứu giếng cổ Hội An Võ Hồng Việt, đây là một yếu tố tâm linh của cư dân Hội An cổ, người xưa quan niệm mỗi chiếc giếng có một vị thần bảo hộ.


Tuy nằm rất gần sông nước mặn nhưng nước ở các giếng cổ này mát ngọt tự nhiên không gì sánh nổi, mực nước luôn cao và ổn định, kể cả những ngày nắng hạn. Anh Trần Trung Mẹo (39 tuổi), một người dân làm nghề chở nước giếng thuê cả chục năm nay, cho biết: “Du khách nước ngoài sành và kỹ tính, đến Hội An, họ chỉ sử dụng nước giếng này thôi, nếu khách sạn nhà hàng nào sử dụng nước máy có chất khử, họ sẽ nhận ra và bỏ đi ngay!”. Một số cụ cao niên ở đây cho biết thêm, thời chiến tranh, nhiều lính Tây khi đặt chân đến đây cũng chỉ sử dụng nước các giếng này để sinh hoạt. Có thể giếng cổ đã nổi danh với các du khách nước ngoài từ đó.

Một chi tiết thú vị nữa là tất cả những món ăn đặc sản ở phố Hội như Cao Lầu, mì Quảng... đều chỉ sử dụng nước từ các giếng cổ. Chính vì vậy, ở Hội An tồn tại một nghề từ xưa đến nay, đó là nghề chở nước giếng thuê. Có những gia đình con nối nghiệp cha, làm nghề ba, bốn đời. Rõ ràng, tầm quan trọng của những chiếc giếng cổ này đối với người dân Hội An và văn hóa của phố cổ là không phải bàn cãi và không gì thay thế được.

Theo Thể Thao Văn Hóa