Sĩ phu yêu nước hay “nàng Kiều” tây học ?

Vốn kiến thức uyên bác qua trên 118 tác phẩm để lại, tuy không phải là kiệt tác hay công trình học thuật độc đáo mà chủ yếu là những khảo sát, đúc kết lịch sử một cách có hệ thống mặc dù về hành văn còn pha trộn biền ngẫu, nhưng về nhiều phương diện, các trước tác của Trương Vĩnh Ký là đóng góp không thể xem thường:

- Lần đầu tiên một tác phẩm sử học về Việt Nam viết bằng tiếng Pháp (Petit Cours d’histoire d’Anam xuất bản 1875/1877)
- Và hai công trình sử học khác viết bằng tiếng Việt là: - Truyện đất Nam Kỳ lịch sử đàng trong (1864),- Đại nam Việt quốc triều sử ký (1879) đều dựa theo những nguồn thư tịch và truyền thuyết cổ, được biên soạn theo phương pháp mới vào thời đó; hàng loạt tác phầm cổ điển của dân tộc bằng chữ Nôm được phiên âm sang quốc ngữ như :

- Truyện Kiều (1875), Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công…nhiều bộ sách dịch Tứ thư, Ngũ Kinh của Trung Quốc…

Vào buổi bình minh của nền văn chương quốc ngữ ở nửa thế kỷ thứ 19, xứng đáng nâng tác giả lên tầm cỡ “một nhà bác học, một thủy tổ nghề làm báo, một nhà ngôn ngữ học” như nhiều người ca ngợi .

Được tiếp xúc với văn hóa phương tây, thông qua việc học trường đào tạo Thầy tu của các Giáo sĩ thừa sai công giáo, phương pháp tư duy của Trương Vĩnh Ký đã chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng Khai sáng của Âu tây, khác với tư tưởng Khổng Mạnh của hầu hết nhân sĩ nước Việt thời bấy giờ. Chính nguồn gốc xuất thân đặc biệt của ông và cái vốn tây học phong phú nầy đã quyết định thân phận của một người trí thức thuộc địa, day dứt Trương Vĩnh Ký cho đến ngày tàn hơi mà chúng ta đã thấy ở lời thơ trên. Người mà sự nghiệp chính trị (nếu có) và sự nghiệp văn học luôn đứng giữa làn ranh, đôi bờ của những phê phán, khen-chê gay gắt, không tiếc lời từ trăm năm nay kể từ khi Ông qua đời (1/9/1898) đến ngày nay, khi mà tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ hoàn chỉnh, bác học trong đó có phần đóng góp không nhỏ của những trí thức “tây học” như Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký …vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

Tiêu chí của lòng yêu nước

Qua những trước tác về lịch sử, văn hóa, báo chí của Ông mà ta đọc được ngày nay hay những hoạt động tích cực cộng tác của Trương Vĩnh Ký trong mối quan hệ giữa triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp thì có thể nói những lời qui tội “phản quốc” hay “tay sai” của thực dân Pháp của một số nhà sử học trước đây không thỏa đáng, thậm chí có phần bất công trong luận tội Ông.

Phải chăng vì Trương Vĩnh Ký không tham gia vào các phong trào chiến đấu của tầng lớp sĩ phu trong khởi nghĩa Yên Thế, chiến lũy Bãi Sậy(1885-1889), khởi nghĩa Văn Thân (1878), Phan đình Phùng… hay phong trào Cần vương theo Vua Hàm Nghi mà ta có thể qui tội cho Ông ? Đành rằng đây là phong trào kháng Pháp, phò vị vua yêu nước quyết liệt, không những hàng vạn người bị chúng cầm tù, tàn sát, truy diệt--- trong đó ba vị Vua nhà Nguyễn đã bị lưu đày tận đảo ở Châu Phi---và đã thất bại hoàn toàn khuất phục trước họng súng của thực dân Pháp. Lẽ nào có thể bỏ qua bối cảnh lịch sử kháng Pháp, “bình tây sát tả” với những biện pháp chống đạo, đàn áp người công giáo hết sức khốc liệt, gây mâu thuẫn lương-giáo trầm trọng dưới triều Tự Đức , đẩy họ về phía kẻ thù một cách oan uổng. Chủ trương “Pháp việt đề huề” sau nầy cũng đã làm tê liệt Phan Chu Trinh, biến Phan bội Châu thành “ông già bến Ngự”…cho thấy thủ đoạn của bọn thực dân nham hiểm và cay độc với tầng lớp sĩ phu đến nhường nào. Trong tình thế như vậy Trương Vĩnh Ký dù có “yêu nước”, sớm giác ngộ nhận thức về độc lập dân tộc đến mấy cũng phải ngậm ngùi. Đã có bao sĩ phu khác trong các phong trào yêu nước đấu tranh bằng vũ lực như sự kiện “Đầu độc Hà Thành”(1908),“Tiếng bom Sa Diện”(1924) của Phạm Hồng Thái, Khởi nghĩa Yên Bái(1930) trong phong trào Quốc dân đảng sau nầy đã bị quân đội Pháp đưa lên máy chém , tù đày ở Côn Lôn, Phú Quốc và các vùng đất đảo xa xôi tận Châu Phi như chúng ta đã biết.

Tiếc thay, quan điểm đánh giá những nhân vật trong lịch sử kháng Pháp vào hậu bán thế kỷ 19 ở nước ta vẫn còn loay hoay trên một nhận thức kinh điển bao biện, xem “kháng cự (sự đề kháng) như một thước đo phẩm hạnh cũng bao hàm những nguy cơ xuyên tạc nghiêm trọng tương tự” nếu theo lời “cáo” nổi tiếng từ thế kỷ 15 “hào kiệt đời nào cũng có”( Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi)…thì đánh giá nầy cũng có thể áp dụng cho thế kỷ 19. Hai chữ “hào kiệt” ở đây đâu chỉ là người cầm gậy gộc, tầm vông chiến đấu với quân thù mà thôi. Chính việc lấy “kháng cự”(bằng vũ lực) làm “tiêu chí” nầy đã phủ lấp mặt tích cực của một trí thức yêu nước, một sĩ phu uyên bác nhưng chất chứa nhiều mâu thuẫn của một thời kỳ đen tối của dân tộc, thậm chí còn chụp lên Ông—một con chiên của Ki tô giáo-- vai trò của một Việt gian mà cơ sở “phán xét” của nó là dựa vào những cuốn sách mỵ dân, bịt mắt người đọc, lẫn lộn “chính”, “tà” của phía mà Trương Vĩnh Ký cộng tác hay chọn lựa những câu chữ cắt xén từ những tài liệu lưu trữ ở Sở Văn khố thuộc địa Pháp theo một ý đồ chính trị đã có sẵn.

Hãy nghe lý lẽ mà Trương Vĩnh Ký đã từ chối quốc tịch Pháp lẫn ân huệ khác của chính quyền thực dân, nói lên nỗi niềm bất hạnh nầy:

- “Nước Nam ta tổ tiên Hồng lạc…gia phả truyền lại bồn ngàn năm nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo Tây, biến hết làm Tây, không còn cái dấu tích chi là người nam nữa, đó là loài Tịch đàm vong tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo gia phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả cũ của tổ tiên, quên đứt là người nam, thì giống ta còn cũng như mất, mà cái cơn diệt chủng tự ta treo lên trước…Người ta sẽ cho tôi là nhu nhược, nhút nhát; tôi đã làm như vậy vì tôi sợ muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Vào dân tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi và đã mất hết tín nhiệm của Vua, của triều đình và của đồng bào tôi. Không lý trời sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu thì một hai nói tôi là con cò sao đặng ? Nên là điều trái tự nhiên hết sức”

Thương thay thân phận “nàng Kiều” của Trương Vĩnh Ký

Ngồi bên cạnh ngôi mộ Trương Vĩnh Ký vắng lạnh, điêu tàn và lặng lẽ trên mãnh đất của gia đình người vợ ông ở góc đường Trần Bình Trọng và Trần Hưng Đạo (quận 5, TPHCM), trong căn lều bán bia và ốc”núi” luộc(đặc sản của vùng núi Tây Ninh) lụp xụp, nghèo nàn của người cháu nội năm đời của ông trong khuôn viên vào một buổi chiều cuối tháng 7 năm 2008, chúng tôi ngậm ngùi biết bao dù biết rằng Ông đã yên giấc từ trăm năm nay, để lại cho thế hệ đời sau những công trình và tư liệu mà hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về mặt học thuật cũng như tồn tại mối nghi ngờ về thái độ và hợp tác của Trương Vĩnh Ký với cả hai phía, Pháp và triều đình nhà Nguyễn chưa được xóa tan. Thời gian ngắn ngủi bên cạnh Vua Đồng Khánh và Toàn quyền(Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ) Paul Bert của Ông đã bị một số nhà nghiên cứu qui kết tội làm “tay sai”, ”phản quốc”… mà không thấy ngay bản thân Trương Vĩnh ký cũng đã bị Paul Bert— thống đốc toàn quyền của bộ máy cai trị thực dân, người bạn hiểu Ông nhất-- “trở giọng” vì chủ trương siết chặt thuộc địa bằng sức mạnh quân sự của Hoàng đế “chính quốc”.

Trước sự ép buộc và cưỡng chế lộ liễu thực hiện chính sách phân chia Việt nam làm ba phần (Nam, Trung, Bắc kỳ) trong khi Ông đang ra sức thuyết phục Paul Bert và bênh vực Vua Đồng Khánh--- mặc dù hàng ngũ quan lại trong triều vẫn khư khư phủ nhận Trương--- phản đối việc bó hẹp ảnh hưởng của triều đình trong chính sách “chia để trị” của nhà cầm quyền thực dân, thì giới quân đội trong hàng ngũ thống trị thuộc địa đã gây sức ép đè nặng lên Ông sau khi Paul Bert đột ngột qua đời ( ngày 11/ 11/1886). Trương Vĩnh Ký thất vọng đắng cay và “tỉnh ngộ” trong việc hợp tác với Pháp, tìm cách lui về Nam sống ẩn dật và biên soạn sách vở cho hậu thế với tất cả tâm huyết và tài năng. Thực tế, cuộc sống “vinh thân, phì gia” hoàn toàn xa lạ đối với Trương. Trong một bức thư gửi bác sĩ Chavannes ngày 8/4/1887, Ông viết “…về danh vọng thì nó không còn quyến rũ được con sư tử già bị đè nặng dưới niềm chua chát…” , còn với vợ mình ( Bà Vương Thị Thọ) Ông tâm sự như trăn trối ” Mọi việc tôi làm còn lưu lại đó. Việc đúng, việc sai hãy để cho đời phán xét, đời nầy chưa tỏ thì đời sau tiếp tục…Trong sáng như cụ Nguyễn Du mà còn phải kêu lên không biết 300 năm sau có ai hiểu được mình huống gì thân phận tôi ! Nếu tôi ra đi trước, bà nhắc con cháu là cả đời tôi cần mẫn, chăm chút để lại cho chúng toàn là sách….”

Vậy Petrus Ký là ai, một trí thức đau khổ của thời cuộc, của một dân tộc trong chế độ phong kiến suy tàn nằm dưới gọng kìm của đế quốc ? Trong cuộc trao đổi với Paul Bert trên đường ra kinh thành Huế vào tháng 4/1886, trên tàu thủy, Trương đã phê phán:

- “Nhiều lần tôi có nói với thống đốc, những người kháng cự họ có lý do vì chủ nghĩa yêu nước của họ. Một là sự thù hằn đối với đám người theo đạo mà họ coi là những người chạy qua hàng ngũ người Pháp làm chỉ điểm, dẫn đường. Hai là sự ngờ vực sự tráo trở như úp ngửa bàn tay, coi mình như những ông chủ của nhà nước An Nam. Họ có mặt khắp nơi trong thành quách bị chiếm đóng, họ đuổi quan An Nam ra khỏi nha môn, và khi ấy mấy ông quan này mất hết quyền thế, phẫn uất mà hút gió thổi bùng lên ngọn lửa kháng cự”.

Cuộc chiến đấu để bảo vệ tổ quốc không chỉ có những nông dân, sĩ phu kể cả hàng ngũ quan lại… đứng lên cầm súng, tuốt gươm, vác tầm vông, xây chiến lũy chống giặc mà còn có những con người khiêm tốn, thủy chung âm thầm đóng góp và chịu nhiều hàm oan khắc nghiệt giữa hai gọng kìm thực dân lẫn phong kiến như Trương Vĩnh Ký, một kẻ sĩ thức thời Việt nam trước thời cuộc trong thế kỷ thứ 19.

Hồng lê Thọ

7/2008