Đoạn 2

(Có hai thư sinh đi ngang qua rồi dừng lại)

Thư sinh A:
Cô ả này chiều qua tôi đã gặp
Cũng điên rồ ngồi hát bến sông Linh

Thư sinh B:
Bóng chiều nghiêng trên mấy lớp hoàng thành
Người thiếu phụ như in tranh loạn lạc.

Kiều Loan:
Hai thầy đồ chắc học hành uyên bác
Sắp đến kỳ kinh nghĩa, gió bay xa
Xếp bút nghiên mà vác giáo theo ta
Sức lực ấy, lũ gà chưa phải trói.

Thư sinh A:
Giai thời loạn thẹn mình mang chẳng nổi
dãy Trường Sơn đi lấp biển sóng cồn
Nhưng cô nương sao giận phấn hờn son
Cửa phòng khuê không chờ giăng tâm sự ?
Chốn kinh kỳ chưa nguôi cơn cuồng vũ
Quỷ không đầu còn gõ cửa đêm mưa
Biết bao cơn gió độc của nhà vua
nồng xương máu, thổi bên đường xào xạc
Thì... cây sung nào... quả rơi lác đác...

Kiều Loan:
Sung cứ rụng, còn tôi, tôi cứ hát
Tôi hát chơi đã mấy lúc rụng đầu
Tôi hát rằng :
"Tình ơi, nước chảy qua cầu
Thì tha hồ cây dương liễu nhớ mầu tà huy".

Thư sinh A:
Thời bây giờ thiên hạ hết thương nhau
Ai hoài công nghe kể chuyện u sầu
Cô về đi, vì chòm cây yên lặng
Thấu lòng cô, chờ đêm khuya thanh vắng
Sẽ bò vào nội điện nói vu vơ.

Thư sinh B:
Thì sớm mai phơi máu chợ kinh đô
Đầu thiếu phụ lắc lư sầu vạn kiếp.
(Hai thư sinh bỏ đi)

Kiều Loan (níu lại):
Hãy dừng lại ! Hỡi chàng tôm chú tép
Ta hát chơi, đầu rụng cũng không lo
Ta hát rằng:
"Thương ơi cái lũ học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm".

Thư sinh B (vui vẻ):
Cô là ai ?
Kiều Loan (lẳng lơ):
Tôi là em ruột chị Hằng
Đêm qua tôi bỏ cung giăng xuống trần
Đứng đây trông hết xa gần
Tài trai chí lớn có ngần ấy thôi.

Thư sinh A:
Chồng cô đâu ?

Kiều Loan:
Chồng tôi đi chinh chiến bốn phương trời
Oanh liệt lắm, nhưng năm xưa đã chết
Còn một mình, sự đời tôi chẳng thiết
Tôi lang thang, tôi hát để quên sầu
Tôi hát rằng:
"Tình tang, xe ngựa công hầu
Cam lòng tan nát riêng màu cỏ hoa..."

Thư sinh B:
Tiếng hát hay như từng giọt châu sa.

Thư sinh A:
Chồng nàng mất bao lâu rồi đấy nhỉ ?

Kiều Loan:
Đã mấy năm tôi không còn nhớ kỹ
Đếm biệt ly bằng lá rụng bên đường
Chồng tôi xưa lừng lẫy khắp nghìn phương
Đi dẹp giặc rồi về làm...

Thư sinh A:
... làm Tư mã ?

Kiều Loan:
Rồi về làm cái cầu vồng đẹp quá
Tan cơn mưa cầu đã tắt từ lâu
Tôi buồn, tôi hát đôi câu
Mây buông vải trắng trên đầu hoa râm...
(Nàng úp mặt vào tay khóc. Hai thư sinh lắc đầu ái ngại
rồi kéo nhau đi. Xa xa, tiếng chuông chùa...)

Đoạn 3

(Nàng ngửng lên ngơ ngác,
bứt một bông hoa trên mái tóc, xé vụn từng mảnh).

Kiều Loan:
Ta đứng trơ đây bêu má phấn
Mà thương thiên hạ sống bơ vơ
Chiến tranh đẫy túi phường buôn máu
Danh nghĩa chồi lên những sọ dừa
Nguyễn Huệ cớ sao thành phản nghịch ?
Để loài mãi quốc dựng ngôi vua ?
Nước vòng ngọc sáng gương trong vắt
Mây chẳng buồn chơi với bóng cờ.
(Một ông già chống gậy trúc lẳng lặng vào quán uống rượu)

Kiều Loan:
Hỏi thăm phỗng đá từ xưa
Chim nào bay rợp giấc mơ anh hùng
Vó câu khua động non sông
Xanh xanh trời bể thoả lòng trượng phu
Cơn khói lửa mịt mù Nam Bắc
Đường viễn chinh vằng vặc trăng soi
Nghìn năm hồ dễ mấy người
Một tay biến chuyển đất trời mênh mang
Ta hát rằng:
Hỡi ai múa kiếm trên lưng ngựa
Giờ đã nằm yên dưới suối vàng
Chí lớn từ xưa chôn chật đất
Riêng đàn đóm đóm lại thênh thang...

Đoạn 4

(Hiệu uý, trẻ tuổi, lẫm liệt trong bộ nhung phục, đi qua đường.
Kiều Loan chợt trông thấy, túm áo chàng).

Kiều Loan:
Mời tráng sĩ lại đây tôi kể chuyện :
Miệng tôi cười như trăng soi mặt biển
Mắt tôi đen như vực thẳm luân hồi
(Nàng quay phắt lại chỉ thẳng vào mặt Hiệu uý)
Chàng là người phụ bạc, chàng quên tôi
Tôi tìm chàng cạn sông rồi lở núi
Suốt mười năm, bao giận hờn buồn tủi
Nước mắt này gấp mấy sóng Châu Giang ?

Hiệu uý (ngơ ngác và say mê):
Nàng dị kỳ như cô gái rừng hoang
Tôi đâu biết chuyện mười năm tìm kiếm
Nàng là ai ? Ôi dung nhan kiều diễm
Từ chiều nay tạc tượng đến muôn đời

Kiều Loan (càng gay gắt):
Chàng cưới bà công chúa xấu hơn tôi
Mới ba năm đã thành con ác phụ
Bị bùa yêu, chàng quên phăng vợ cũ
Mỏi gối quỳ, nô lệ sắc hồ tinh.

Hiệu uý:
Chuyện ngày xưa nàng giấu kín u tình
Chồng nàng xưa chắc là người phụ ước
Gặp chiều nay nhưng hẹn từ kiếp trước
Mắt người điên ngùn ngụt đốt lòng ta
Nàng cợt đùa, càng thêm nỗi xót xa.

Kiều Loan:
Tôi không đùa vì mắt tôi còn mở
Lòng chưa chết, bao giờ nguôi tưởng nhớ
Ngày ra đi, chàng cũng mặc áo này
Cũng thanh gươm buộc dải lụa hồng bay
Cũng đôi mắt thiết tha, và giọng nói
như than van từ lưng chừng ngọn suối
cũng say mê...
Gió hiu hiu lạnh lẽo sóng Hà Khê
Người ấy đi đâu sao không trở về ?

Hiệu uý:
Tôi có việc phải vào ngay nội điện
Xin cô nương buông áo, kẻo đêm khuya.

Kiều Loan:
Tôi không buông, chàng phải đến đằng kia
Tìm bằng được một anh chàng họ Vũ

Hiệu uý (bỗng chú ý):
Chồng cô nương là một người họ Vũ ?

Kiều loan:
Nhắn hộ tôi rằng: ông ơi, người vợ cũ
Đang chết mòn trong cát bụi Phú Xuân
Chim tha rơm về mái tóc hoa râm
Làm tổ ấm để vợ chồng đoàn tụ

Hiệu uý:
Có đích thực chồng cô nương họ Vũ ?

Kiều Loan (ôm vai Hiệu uý):
Đúng chàng rồi, chàng phải cưới tôi đi
Từ vấn danh, nạp thái đến vu quy
Cứ đem đến cho tôi con Xích thố
Và một thanh gươm, để tôi chém cổ
kẻ phụ tình đang trốn tít chân mây

Ông già (ở trong quán nói ra):
Mời cô nương và dũng sĩ cùng say
Lão tung gậy thành cầu vồng đỏ tía
Làm lễ cưới phải trăm bình rượu quý
Tế tơ hồng phải khóc lụt trần gian.

Kiều Loan (buông áo Hiệu uý, giọng nghiêm trang):
Tôi nói đùa, xin chàng đừng để ý
Mời chàng đi !

Hiệu uý:
Lòng tôi đã chia tan
Nàng là ai ? Tôi muốn biết tên nàng
Để những khi thẩn thơ ngoài nội cỏ
Khi kéo quân ra ải lạnh, trăng mờ
Tôi ngậm ngùi, bâng khuâng niềm tưởng nhớ
Gọi tên nàng trong bóng khói hư vô.

Kiều Loan:
Ngày muộn rồi, tráng sĩ hãy vào thành
Vợ chồng tôi như đôi lá tròn xinh
Kết liền cánh nhịp nhàng âu yếm mãi.

Hiệu uý:
Nàng đẹp quá, tôi tiếc người điên dại
Này áo xiêm đầy bụi đất đường xa
Nắng phương nào trong cánh lụa thướt tha
Thâu góp hết tình yêu trong cát bụi
ảo não quá, mắt cuồng si vời vợi
Tóc trôi dài nhạc lạnh sóng trường giang
Nàng ở đâu ?

Kiều Loan:
Tôi ở giữa rừng hoang
Tôi là gái goá chồng, là tiết phụ
Thở hương khói để phụng thờ người cũ
Và ban thờ là mắt lệ long lanh
Chuông thu không trong gió lạnh rùng mình
Mời tráng sĩ hãy vào trong nội điện.

Hiệu uý:
Lòng trong trắng chôn tình sâu tựa biển
Từ chiều nay vùi tâm sự thiết tha
Cô về đi, quê hương ấy còn xa
Nắng thoi thóp, tiếng chuông chùa văng vẳng
Như giục cánh chim non tìm tổ ấm
Kẻo đêm nay sấm chớp rộn lòng đau
Cô về đi, ta phải cách xa nhau
Duyên kỳ ngộ, hương vương đầy nếp áo
Và tiếng hát líu lo đường gió bão
còn kéo dài trong những buổi chiều xanh
Bao giờ quên bóng lá rụng bên thành...
(Hiệu uý đi hẳn và Kiều Loan cũng đi khuất)

Đoạn 5

(ánh chiều tắt hẳn, ánh trăng thượng tuần
chiếu xuống xanh nhạt. Ông già ngâm thơ trong quán rượu)

Ông già:
Bảng lảng thân tàn ai có hay
Gươm ta ngủ bụi đã muôn ngày
Chiến bào thơm máu phơi trăng khuyết
Tuấn mã mòn xương ngóng cát bay
Tuổi quá sáu mươi thèm giấc ngủ
Đời trôi nghìn vạn nhớ cơn say
Bóng chiều thương chuyện mười năm trước
Mưa rụng kinh thành buốt cánh tay
(Trong quán có tiếng đổ vỡ.
Ông già bị đẩy lùi ra ngoài. Cửa quán đóng sập)

Ông già:
Ồ, các người vô lý
Cứ giục lão đi về
Nào ta biết về đâu ?
Người chết nằm dưới đất
Người sống chỉ nghiêng bầu
Vua chúa rồi cũng mất
Riêng ta còn sống lâu.

Kiều Loan (ở mé đường chạy ra):
Kìa tia chớp - Bắc Bình Vương đã lại
Áo nhà vua tê tái màu son
Mắt đen hai vực sâu tròn
Chiều nay úp xuống linh hồn bơ vơ
(Nàng túm gậy ông già)
Có phải chàng ? Sao dám ở kinh đô
Nơi gấm lụa vàng son che khuất bóng
người ly phụ héo hon, lệ trôi phăng gối mộng
Lệ trôi phăng cả mái nhà gianh
Quê hương có núi xanh xanh
Núi đi đi mất buồn tênh xứ người
Tôi nói thế mà chồng tôi cũng khóc
Tôi thương quá tôi bèn vò mái tóc
Suốt ba đêm lau nước mắt cho chồng
Rồi võng đưa, tôi cất tiếng :
(Nàng bắt chước người mẹ bế con và hát ru)
Bồng bống bông
Thiếp ru chàng ngủ biển Đông
Mây chiều sừng sững như lồng đau thương
Chớp nguồn, sấm động mười phương
Bao giờ chuyển đất đường gươm anh hùng

Ông già:
Nghe tiếng hát, tóc không đành nhuộm trắng
Rượu không đành lật đổ khối lo âu.

Kiều Loan:
Chàng khóc mãi, lòng tôi càng cay đắng
Tôi kể chuyện : Mười năm em gánh nặng
Cái biển Đông và dãy núi Đoài
Này chàng xem: bầm tím cả hai vai
Lòng nhức nhối từng cơn tưởng nhớ
Chàng tuyệt mù trời xa cách trở
Em âm thầm dệt lụa trắng phau phau
Sớm lại chiều em quấn trên đầu
Đi thơ thẩn hát vang ngoài ngõ trúc
Đêm nhớ nhung, gió lay hồn tỉnh thức
Níu bóng chàng, em lại nằm mơ :
"Vườn hoang bàng bạc trăng mờ
Nhạc vàng giục ngựa bao giờ hồi hương".

Ông già:
Từ chiều nay tiếng hát cạn trăm bình
Ta say rồi, vỗ trắng cuộc phù sinh
Nằm thảnh thơi chờ nghe câu tuyệt diệu.

Kiều Loan:
Tiếng võng đưa, chàng chập chờn nhắm mắt
Tôi bỗng nghe gió âm cung hiu hắt
Đến nửa đêm, thức giấc, lắng tai nghe...
Thì chồng tôi đã chết trên cành tre.
(Nàng cười rũ rượi)

Ông già:
Ai đứng kia ? Ơi hỡi khách qua đường
Ngồi xuống đây, ta có bình rượu quý
Hãy cùng say, ha ha, cùng tuý luý
Cứ say đi, trời đất nghĩa gì đâu.

Kiều Loan:
Cụ nói gì, cháu tuổi thơ chẳng hiểu
Nhà cụ đâu, sao cụ không đi về ?

Ông già:
Nhà ta đâu ? Túp lều tranh xiêu vẹo
Nằm tương tư bóng đẹp không quay về
Nhà ta đâu ? Con sông dài trắng xóa
Buồn nghe mưa trùng điệp khúc tiêu dao
Gió đã xoay chiều, giang sơn tàn tạ
Giải Trường Sơn nhớ mãi một chòm sao.

Kiều Loan:
Nhà không có vì "giang sơn tàn tạ
Gió xoay chiều" - Cụ hát đến là hay
Cụ già ơi, ai xui cụ thành say ?

Ông già:
Ta có muốn say đâu, này ta nâng vạt áo
hứng dòng lệ triền miên chan hoà rượu ngon
Ta có muốn khóc đâu, này cánh tay lảo đảo
như níu bóng anh hùng phai mờ nước non.

Kiều Loan:
Trong thế gian làm chi có anh hùng ?
Anh hùng ở đâu ? Là ai ? - Thưa cụ ?
Cụ đi đâu lại ôm cây cổ thụ
ngả về đây cho chật cả lòng tôi ?
Cụ nhớ xem nước mắt bấy nhiêu rồi
Cụ có giả hay còn đòi uống nữa ?
Tôi chỉ mong rượu chảy về chan chứa
Rượu mông mênh, tôi với cụ bồng bềnh...

Ông già:
Lão chưa say, mới uống có vài bình
Đem vò nữa, lão chưa say - Chủ quán !
Trên cõi đời khi rượu ngon đã cạn
mà chưa say, thì lão giết nhà ngươi !

Kiều Loan:
Một bình men Đông Hải đã vơi rồi
Cụ muốn say hãy vào cung chúa Nguyễn !

Ông già:
Rượu của ngươi quay cuồng như sóng biển
Ta sẽ tâu lên Hoàng đế Quang Trung
bắt nhà ngươi đi tát cạn bể Đông !

Kiều Loan:
Tát bể Đông, phải đan chiếc gầu sòng
bắt chúa Nguyễn chui vào nằm đánh trống
Tung lên gió lại thành anh Chiêu Thống
Chết vì trong tay áo có đàn ong !
Vợ chồng tôi cứ tát mãi bể Đông
Chồng tôi ngã, tôi cười như sóng vỗ
Chiều hôm ấy tôi say sưa quá độ
Nghĩ cũng thương bà công chúa Ngọc Hân
Đi lấy vua, uổng phí cả mùa xuân !

Ông già:
Than ôi, mặt đất chông chênh
Không dung hồn vĩ đại
Mộng nghiêng trời, dân ta chưa kịp hái
Thì ngọn gió hiu hiu làm đổ vỡ tan tành
Từ rừng xanh, từ núi đỏ, từ viễn phố, từ cô thôn
Những tiếng sáo bâng khuâng chiều lại chiều véo von
Từ lều mưa, từ quán gió, từ gác tía, từ lầu son
Có những người điên nào cười thảm, khóc ròn
Phơ phơ râu tóc mà như tuyết
Ngày tháng vu vơ mà trăng mờ héo hon
áo bụi quần sương càng ưu phiền tuế nguyệt
Nửa giấc chiêm bao đành gậy trúc hao mòn
Mời cô nương cùng ta vào bệ kiến
Xin nhà vua đủ trăm vò rượu ngon
Uống thật say rồi lên đỉnh Tây Sơn
khuân đá tảng ném bừa vào đế khuyết.

Kiều Loan:
Thưa lão trượng, cửa thành đều đóng hết
Cụ đứng đây xem cháu lên cung giăng
Nội đêm nay cháu sẽ giết cô Hằng
Lôi chú Cuội xuống trần cho uống rượu.

Ông già:
Phải, có ba thứ không bao giờ chết :
Điên cuồng pha rượu chắt thành thơ
Ngày mai thiên hạ tàn đi cả
Giữa ngã ba đường tôi với cô.

Kiều Loan:
Cụ quá say, nhưng không say vì rượu
Cụ là ai ?

Ông già:
Nước mắt hoen trên đế nghiệp Tây Sơn
Mưa tầm tã trên nấm mồ Nguyễn Huệ.

Kiều Loan:
Nguyễn Huệ ?

Ông già:
Người chuyển rung bốn bể
Thương nước, dựng lên áo vải cờ đào
Đôi mắt người sáng rực hai vì sao
Cứu dân tộc khỏi nanh hùm vuốt sói
Quả ngọt hoa thơm cho người nghèo đói
Tiếng nhạc lời ca cho khắp dân lành.

Kiều Loan (khoe áo):
Áo cháu dệt đây với mộng tuổi xanh
khi biên thuỳ tan bóng giặc Mãn Thanh
Tiếng khung cửi nhịp tiếng Người bầu bạn
Giọng của Người, giọng chuông đồng sang sảng
Tiếng hô quân ngoài ba dặm vang lừng.

Ông già:
Ta đã xem Người xuống núi, lên rừng
Như một vị thiên thần tung gió bão
Bên Cao Miên, các tháp ngà lảo đảo
Tít miền Nam, thành Gia Định rung rinh
Ngoài Bắc Hà, cung điện bỗng rùng mình
như động đất, khi chân Người bước tới.

Kiều Loan:
Ngày Tiên đế diệt nhanh loài lang sói
Cháu còn thơ đã mộ tiếng anh hùng
Gặp bao chàng tuổi trẻ luyện đao cung
Từng quật ngã ba toà Lê, Trịnh, Nguyễn
Cháu mơ ước được bước đi uyển chuyển
hát véo von trong mộng Bắc Bình Vương
Ai ngờ đâu thấp thoáng núi Tây Sơn
đã đổ xuống, chỉ còn mô đất nhỏ !

Ông già:
Còn bình rượu, rượu tuôn mưa nhả gió
Mộng đã tan, ta sống mãi trên đời
Chỉ còn bình rượu đắng để làm vui.

Kiều Loan:
Cụ nhìn xem: có còn đâu rượu đắng
Càng say sưa, chuyện đời càng chất nặng
Bầu rỗng không, chứa chật những hồn ma
Cháu quá mê, giờ cháu mới nhận ra :
Cụ dạy học đất Hà Khê thuở trước.

Ông già:
Cô biết lão là ai ?

Kiều Loan:
Mười năm trước
Có anh học trò mắt xếch, mặt vuông
Ăn mỗi ngày hết nhẵn nồi mười cơm
Quật ngã hết trai làng môn đánh vật
Đến trường cụ, học thì hay chữ nhất
Tính ngang tàng, cụ đã phải đuổi ra
Vì chót đấm gẫy lưng một chú ngựa già
bên hàng xóm - Thầy phải đền năm lạng bạc.

Ông già:
À... lão nhớ... nhưng ngày nay tuổi tác
Học trò xưa kể đến mấy trăm người...
Nhớ làm sao ! - Trường cũ đã tan rồi
Đệ tử, môn sinh... tuyệt mù bốn ngả
Đứa đi làm quan, dập dìu xa mã
Đứa về làm dân, cày cuốc, gánh gồng
Có đứa theo buồm căng gió bể Đông
Có đứa ngã trên chiến trường Nam Bắc.

Kiều Loan:
Anh học trò này
cũng đã theo Quang Trung dẹp giặc...
Đến ngày nay cờ biển rợp trên đầu
Là chồng tôi !

Ông già:
Giờ hắn ở nơi đâu ?
Tên gì nhỉ ?

Kiều Loan:
Anh học trò họ Vũ...

Ông già (ngẫm nghĩ một lát):
à... họ Vũ... ! Phải... phải rồi ! Ta nhớ
Cái thằng đầu to, mắt xếch, mặt vuông