+ Trả Lời Ðề Tài
kết quả từ 1 tới 2 trên 2
  1. #1
    Tham gia ngày
    Feb 2008
    Đến từ
    Kiên Giang
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    4,164
    Thanks
    4
    Thanked 36 Times in 29 Posts

    Default Cây Tre và Người Quân Tử

    Bài 1: Cây Tre và Người Quân Tử



    Trong văn chương bình dân, cây tre là hình ảnh thân thương bất khả phân ly, gợi lên bổn phận và trách nhiệm gánh vác gia đình, non nước của người làm trai.

    Ba đời bảy họ nhà tre
    Hễ cất lấy gánh, nó đè lên vai.

    Hoặc để nói lên lòng thương con vô bờ bến của tình mẫu tử thiêng liêng:

    Ví dầu cầu ván đóng đinh
    Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
    Khó đi mẹ dắt con đi
    Con đi trường học, mẹ đi trường đời.



    Theo quan niệm của người phương Đông, tre, trúc tượng trưng cho mẫu người quân tử. Cứng mà mềm mại, đổ mà không gãy, lòng rỗng không, biểu trưng cho tinh thần và khí độ an nhiên tự tại, không mê đắm quyền lợi, vật chất. Tre, trúc biểu lộ tính cách của dân tộc Việt, một dân tộc có tiết tháo, phẩm hạnh và kiêu hùng, ngoan cường nhưng hiếu hòa, độ lượng.

    Ngay từ thời dựng nước, cây tre đầu làng vốn gần gũi, thân quen, thoáng chốc trở thành vũ khí lợi hại có đủ tính cương nhu, giúp cậu bé làng Gióng đánh tan giặc Ân, sau khi chém gãy cả thanh gươm sắt.

    Dân tộc ta đã biết sử dụng tre làm công cụ giữ nước, với các vũ khí lợi hại như cung, nỏ, bàn chông, tầm vông vạt nhọn... Và những tiếng nổ kinh hồn của hàng loạt pháo tre đã làm quân thù bạt vía trên chiến trường, hay góp vui trong ngày hội liên hoan thắng trận.

    Không như hầu hết các loại cây chỉ đứng riêng lẻ một mình, tre luôn mọc thành bụi, có gốc liền gốc, rễ đan rễ, thể hiện tính quần tụ, kết đoàn, tạo thành sức mạnh khó lay chuyển. Câu chuyện một người bẻ dễ dàng từng chiếc đũa tre, song không thể bẻ gãy cả bó được minh chứng.

    Thân tre thẳng và cao mà không bị đổ là do thớ tre dẻo và thân tre mềm dễ lượn theo chiều gió. Với đặc tính phối hợp cương nhu để đón gió, thuận theo gió vừa đủ rồi ngạo nghễ vươn lên trở lại hình dáng cũ - một đặc tính độc đáo chỉ có ở cây tre. Dưới những trận cuồng phong, tre chỉ chịu tróc gốc cả bụi chứ không bao giờ chịu gãy ngang thân...

    Tính chất nổi bật nhất trong cây tre tương ứng với kỹ thuật võ học là càng bị uốn cong và kéo sát bao nhiêu thì sức bật lại càng mãnh liệt, dữ dội bấy nhiêu. Điều này càng thể hiện rõ tinh thần cương nhu phối triển trong nghệ thuật giữ nước của dân tộc Việt. Gặp đối thủ cường bạo, hung hiểm, tạm thời ông cha ta thường lánh đi (nhu) để tránh nhuệ khí ban đầu. Sau đó chờ cho địch lơi lỏng, chểnh mảng việc quân cơ, ta mới tập trung đánh những trận quyết định (cương) hầu giành thắng lợi sau cùng.

    Trước những trận đánh quyết định để đảm bảo thắng lợi, chúng ta cần lùi lại để tạo đà thật vững chắc. Lịch sử giữ nước của bao nhiêu triều đại VN đã chứng minh cụ thể điều đó. Với biểu tượng cây tre, dân tộc ta đã nâng việc giữ gìn và bảo vệ đất nước lên hàng nghệ thuật với biết bao kinh nghiệm vô cùng sống động và phong phú.

    Tóm lại, cây tre biểu tượng cho một nhân cách, một hoài bão cao thượng. Quần thể tre cho thấy một xã hội thuận hòa kỷ cương “tre già măng mọc”, chứ không phải tranh sống theo kiểu “cây lớn đè cây nhỏ” giành lấy ánh sáng mặt trời.

    Bắt nguồn từ các quan điểm trên, các bậc thầy Vovinam Việt Võ Đạo quan sát cây tre ở nhiều góc độ, tư duy về lẽ sinh tồn, thành bại để đúc kết xây dựng một lý luận về vận động võ học, một quan niệm nhân sinh. Từ đó xây dựng một con người võ đạo biết sống yêu thương gần gũi, hòa nhập với cộng đồng để mưu cầu hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Cho dù gặp sự ngang trái, mâu thuẫn, hoặc lâm vào cảnh bế tắc, con người võ đạo vẫn biết “vật cùng tắc biến”, hóa giải các mâu thuẫn bằng nguyên lý cương nhu phối triển. Cho nên có thể nói cây tre là bài học đầu tiên để nắm các yếu lý của võ thuật.

    Với các phẩm tính có một không hai, cây tre chứa đựng những hình ảnh sinh động bao gồm đầy đủ tính âm dương, cương nhu và luôn hữu dụng cho con người. Hào hùng, khoáng đạt song cũng hết sức khiêm cung, bình dị và đầy lòng yêu thương... cũng là nét văn hóa đậm tính cách dân tộc mà cây tre là một biểu tượng điển hình của tinh thần nhân hòa và nguyên lý cương nhu phối triển.

    (Trích tiểu luận võ học của võ sư Nguyễn Văn Sen)


    Bài 2: Học vấn Người Quân Tử


    Quan niệm Nho giáo xưa chia con người ta thành hai hạng chính là quân tử và tiểu nhân. Để cho mọi cá nhân hoàn mỹ, nền văn hoá cổ đưa ra hàng loạt khái niệm quan trọng: nhân-đức-lễ-hiếu-nghĩa nhằm ràng buộc, chế ngự hành vi con người, mong muốn con người nhanh chóng được hoàn thiện.

    Cần phải hiểu rõ các danh từ riêng quân tử và tiểu nhân thì mới biết xã hội xưa đã đề cao nhân cách cao đẹp trong cuộc sống biểu hiện qua tư duy biểu đạt, giáo dục và hành vi của bậc chính nhân quân tử. Con người ta đi trên đường đời cũng giống như người lữ khách nhìn thấy trước mặt rất nhiều lối rẽ phải lựa chọn. Nếu đi đường thẳng quang minh thì sẽ đến đích suông sẻ, nếu đi đường cong queo sẽ lạc bước sa chân, vì thế người quân tử bao giờ cũng xác định chọn đường thẳng, còn kẻ tiểu nhân toàn chọn những đường gấp khúc ngoắt ngoéo.

    Hai danh từ chủ yếu trong các sách vở, ngôn từ, sinh hoạt cổ này thoạt đầu chỉ đề cập đến địa vị trong xã hội, về sau mở rộng nghĩa ra thành người quân tử luôn đàng hoàng, phẩm cách cao thượng. Hiên ngang chính đại, vì nghĩa quên thân, kẻ tiểu nhân chí khí bạc nhược, hèn hạ cúi luồn, hám lợi bỏ nghĩa.

    Ngay cả trong những người có văn hoá giáo dục, cũng vẫn chia làm hai loại là nho quân tử và nho tiểu nhân. Nho quân tử là người học và làm theo đạo thánh hiền, lo tu thân sửa mình để hoàn thiện nhân cách chứ không nghĩ học lấy bằng cấp chỉ cốt lấy nghề kiếm ăn. Người quân tử làm việc dựa vào sức mình là chính, làm sai điều gì trước hết phải tự trách mình rồi sửa mình, khi thấy việc thiện thì phải cố làm cho được thấy điều ác thì phải sợ hãi tránh xa. Muốn học làm quân tử cần phải thành thực, không bao giờ tự lừa dối mình mà làm hại sự hiểu biết của chính bản thân và biết giữ chất phác trong nội dung và văn hoá ngoài hình thức.

    Đối với một người nhân-nghĩa-trung-tín thì học vấn là điều tối quan trọng. Người quân tử bao giờ cũng muốn có đức, nhưng phải có học thì cái đức mới có giá trị. Bởi nhân, trí, tín, trực, dũng, cương đều là đức tốt cơ bản để tu thân. Nhưng nếu chỉ muốn đức mà không muốn học để hiểu lý lẽ hay dở, đúng sai thì rất sai lầm. Muốn nhân lại bị tình cảm chi phối, che mờ đi thành ra ngu tối. Muốn trí lại bị ham muốn phân tâm thành mông lung. Muốn tín lại cố chấp hẹp hòi đâm ra ích kỷ. Muốn trực lại bị nóng nảy khống chế đâm ra ngang ngạnh. Muốn dũng lại không kiềm chế được thành ra bạo loạn. Muốn cương nhưng cố bảo thủ kiểu gàn dở đâm ra ngông cuồng... hậu quả của việc có đức nhưng không có học vấn là vậy.

    Sự học cũng như việc trồng lúa, có cây lúa mọc lên không tốt, có cây mọc tốt lại không có hạt. Người đi học thì có người học mãi vẫn không giỏi, có người giỏi thì đức lại không ra gì, vì thế mà con người ta cần giáo dục bồi đắp, tu dưỡng đạt được cả tài và đức. Người đi học thì phải say mê thì mới mong tiến bộ, nhất là đừng vội đặt ra mục đích cầu danh, kiếm lợi thì kiến thức mới sâu sắc, chắc chắn.

    Người quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mọi điều hay, điều tiết trên lý thuyết và trong thực tế cuộc sống chứ không phải học vẹt, khoe mồm chỉ biết nghe qua tai rồi nói ra miệng lấy mẽ thì học kiểu gì cũng vô bổ.

    Khổng tử còn cho rằng: “Người quân tử có ba điều lo nghĩ không thể không xét đến. Trẻ mà không học thì khi lớn lên không có tài năng gì. Già mà không chỉ dạy người, khi chết rồi không ai tưởng nghĩ đến mình. Khi giàu có mà không đem của giúp người thì lúc cùng quẫn không ai giúp mình. Cho nên người quân tử lúc trẻ nghĩ đến tuổi già mà lo học, lúc già nghĩ đến cái chết mà lo dạy người, lúc thịnh nghĩ đến lúc suy mà lo giúp người.”

    Sách Đại học xưa cũng dạy rằng: từ vua đến dân ai cũng phải lây tự sửa mình làm gốc vì kết quả học vấn là biểu hiện rõ nhất của phép tu thân. Muốn hoàn thiện mình, quan trọng nhất phải giữ được tâm và ý. Giữ được tâm cho chính tức là không bị chi phối và điều khiển của tức giận, sợ hãi, vui say. Còn khi tâm đã loạn thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, mồm ăn không biết mùi vị. Giữ được ý cho thành, nghĩa là không bao giờ tự lừa dối mình, đối với mọi việc đều thành thực như như ghét mùi thối, yêu sắc đẹp. Nho giáo lấy thành ý là chìa khóa của phép tư thân.

    Khi đã biết cách sửa được mình thì biểu hiện đầu tiên là không làm điều gì bất thường, trái đạo, không dùng lời nói khéo mà hại đạo đức, không nóng nảy làm bậy, không bo bo tính lấy lợi ích của riêng mình, tuy ai cũng muốn có phẩm giá nhưng không được dựa trên danh lợi phi nghĩa. Đã là người quân tử thì không bao giờ thấy điều lợi mà bỏ việc nghĩa, nếu làm việc phi nghĩa mà được phú quý thì đành chịu bần tiện còn hơn.

    Sách Luận ngữ nhận xét: “Quân tử lo nghĩ giữ đức hạnh, tiểu nhân chỉ nghĩ đến địa vị mình. Quân tử nghĩ sợ pháp luật, tiểu nhân chỉ nghĩ đến sự lợi lộc. Quân tử có tính cách trung hoà mà không a dua bè phái, tiểu nhân thích a dua bè phái mà không có tính dung hoà.”

    Vì vậy mà trong mọi hoàn cảnh, người quân tử đều tìm thấy niềm vui kể cả khi ăn gạo hẩm, uống nước lã, nằm đất. Ngoài ra, người quân tử có học vấn thật sự còn biết tuỳ vị trí và cảnh ngộ của bản thân để ứng xử cho đúng. Phú quý thì hành lễ theo cách phú quý, bần tiện thì hành xử theo cảnh bần tiện, gặp người hoang dã thì đối xử theo cách hoang dã, khi lâm nạn thì hành động theo cảnh ngộ hoạn nạn.

    Trong mọi lúc, mọi nơi, mọi điều kiện đểu biết cách ứng xử cho thích hợp, đó là thành quả của học vấn, hiểu biết, giáo dục trong đối nhân xử thế của người quân tử, như Mạnh tử đã nói: “Người quân tử lấy đức nhân làm nhà ở, lấy đức nghĩa làm đường đi, lấy lễ làm cửa. Chỉ có mỗi người quân tử mới có thể đi đường ấy, ra vào cửa ấy mà thôi.”

    (Nguồn: Tạp chí Hà Nội ngàn năm)




    Bài 3: Khôn cũng Chết, Dại cũng Chết -Trang Tử



    Story:

    Mở Đầu Câu Chuyện

    Một hôm Trang Tử dẫn học trò đi ngao du, nhân lúc ghé vào nhà một người bạn để thăm. Chủ nhà tay bắt mặt mừng, nói:

    - Tiếng tăm tiên sinh vang dội như sấm bưng tay. Hôm nay tiên sinh ghé thăm bỉ phu thật là vạn hạnh. Nói rồi quay lại gọi một gia đinh, bảo: - Hôm nay ta gặp khách quý, để mở đầu câu chuyện ngươi hãy thịt một con chim cho ta đãi khách!

    Đứa ở hỏi:

    - Vâng ạ! Nhưng thưa chủ nhân, có hai con chim, một con hót hay, một con không biết hót, thịt con nào?

    Chủ nhân chép miệng:

    - Dĩ nhiên phải thịt con chim không biết hót, thứ vô dụng đó để làm gì?

    Trang Tử cùng chủ nhân ngồi nhâm nhi ly rượu với thịt chim, luận việc thế thái nhân tình, đoạn từ giã chủ nhà, dẫn học trò ra đi. Họ đến bìa rừng, thấy một tiều phu chống búa nhìn cảnh rừng núi bao la. Trước mắt lão là một cây cổ thụ. Trang Tử thấy vậy hỏi:

    - Trời chiều mà chưa thấy tiều ông đẵn được cây nào. Gặp cây này cao thẳng sao ông không hạ đi?

    Lão tiều thở dài nói:

    - Tôi cũng muốn hạ nó, nhưng ngặt gỗ nó xốp lắm, thứ vô dụng đó đẵn mà làm gì?!

    Một học trò nghe vậy, hỏi thầy:

    - Cây vô dụng thì bỏ qua, con chim vô dụng thì giết. Con thật không hiểu nổi thói đời?

    Trang Tử mỉm cười nói:

    - Ta ở vào khoảng hữu dụng và vô dụng đó. Chỉ có bậc đạo đức mới tránh khỏi tai họa mà thôi.
    << Sưu Tầm >>

    Dây đai thăng cấp càng cao, lòng son vì nước đượm bao ân tình.
    Gió lên màu áo đại dương, trai hùng rộng mở tình thương vì đời..

  2. #2
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Đến từ
    Gia Đình VOVINAM
    Bài gởi
    2,303
    Thanks
    16
    Thanked 23 Times in 17 Posts

    Default Triết Học Cương Nhu Phối Triển Qua Huyền Thoại Phù đổng Thiên Vương

    TRIẾT HỌC CƯƠNG NHU PHỐI TRIỂN QUA HUYỀN THOẠI PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
    Vs Nguyễn Văn Sen
    Lược truyện: Đời Hùng Vương thứ 6, nước Ân ở phía Bắc chỉ lăm le sang cướp lấy Văn Lang (Việt Nam), nhà vua rất lấy làm lo lắng. Triều thần có người tâu rằng: “Tổ tiên ta đã từng truyền dạy cho con cháu phải biết đoàn kết trên dưới một lòng, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện binh bị mà giữ nước; lại phải chiêu hiền đãi sĩ, tìm người kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu có người tài giỏi thì có thể dẹp được giặc vậy”. Vua nghe theo lời bàn đó. Ba năm sau quả nhiên chúa nhà Ân đích thân cầm quân sang xâm lấn phương Nam.
    Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (tỉnh Bắc Ninh ngày nay), có một người đàn bà tuổi đã ngoài 60, cách đó ít năm, một hôm ra đồng trông thấy một vết chân người rất to lớn, bà lấy làm lạ bèn ướm thử chân mình vào. Từ đó bà mang thai, sinh ra một người con trai, đặt tên là Gióng, và hơn ba tuổi rồi mà Gióng vẫn không biết lẫy, không biết nói.
    Đến ngày sứ giả của vua Hùng đi qua làng rao tìm người tài giỏi đánh giặc, thì Gióng bổng lên tiếng bảo mẹ đi mời sứ giả. Bà mẹ ngạc nhiên nhưng rồi cũng nghe lời con đi mời sứ giả của nhà vua đến. Đứa bé ngồi dậy bảo sứ giả rằng: “mau về tâu Vua rèn một ngựa sắt, một thanh kiếm sắt, một roi sắt và một nón sắt, ta sẽ cỡi ngựa đội nón ra đánh giặc, giặc tất phải kinh bạt, Vua còn lo gì nữa?” Sứ giả mừng rỡ về tâu Vua. Vua vừa kinh ngạc, vừa mừng, nói rằng: ”Ta không còn lo nữa”. Song quần thần tâu: “Một đứa con nít thì làm sao mà dẹp giặc lớn được?” Nhà vua nổi giận nói: “Kinh nghiệm của tổ tiên không phải là sai, các quan chớ nghi ngờ gì nữa, mau đi tìm sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón”.
    Sứ giả đến báo cho Gióng biết. Người mẹ sợ hãi cho rằng tai hoạ đã đến. Gióng cả cười bảo mẹ: “Mẹ hãy lo nhiều cơm cho con ăn, việc đánh giặc mẹ chớ lo”.
    Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung cấp không đủ. Hàng xóm sửa soạn đồ ăn, thức uống rất nhiều mà cậu bé vẫn không no bụng. Vải lụa, gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín thân, phải đi lấy thêm hoa lau buộc vào cho kín người.
    Kịp đến lúc giặc Ân tới chân núi Trâu Sơn ở Võ Ninh, người con vươn vai đứng dậy to lớn dị thường, rồi đội nón, cưỡi ngựa sắt, cầm kiếm ra trận. Ngựa chồm lên hí dài một tiếng phi như bay, nháy mắt tới trước quân tướng nhà vua. Gióng vỗ kiếm đi trước, quan quân theo sau, tiến về phía giặc. Quân giặc lớp bị ngựa sắt phun ra lửa thiêu chết, lớp bị gươm của Gióng chém chết ngổn ngang. Đang lúc hăng say đánh giặc gươm của Gióng bị gãy ngang, Gióng bèn nhổ luôn bụi tre ở bên đường mà quăng, mà quật vào đầu giặc. Ân vương chết tại trận tiền.
    Giặc tan, Gióng phi ngựa lên Sóc Sơn, cởi bỏ quần áo để lại, rồi cả người ngựa bay về trời. Mãi nhiều đời về sau, các ao hồ ở trong vùng từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn đều hai cái chạy song song, tương truyền đó là dấu vết chân ngựa sắt của Thánh Gióng để lại. Khu rừng giặc bị ngựa sắt phun lửa thiêu đốt ngày nay còn mang tên là làng Cháy (theo Lĩnh Nam trích quái)
    Tác phẩm “Phù Đổng Thiên Vương” do Hoạ sĩ Nguyễn Đình Đăng, hiện sống và làm việc tại Nhật Bản.

    Tính Triết Học Trong Câu Chuyện Qua câu truyện kể trên, ta thấy triết học Cuơng Nhu phối triển được trình bày một cách uyên bác, sâu kín hơn so với truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ.
    Trong truyện Lạc Long Quân, thuyết Âm-Dương (Âm Dương tương sinh – tương khắc) đã được nêu đích danh, sau đó, mới trình bày đến đạo ứng xử. Hay nói một cách khác, tổ tiên người Việt coi Âm – Dương là phần vũ trụ quan, còn phần ứng xử, điều hợp là do tri thức của con người, tức là nhân sinh quan vậy.
    Câu truyện Lạc Long Quân là câu truyện mở đầu cho một dòng lịch sử, đồng thời cũng là phần đầu của một học thuyết. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi các cụm từ âm dương đã được định hình, rồi sau đó toàn truyện biện minh cách phối triển bằng phương pháp cuốn chiếu (hay nhất quán), nghĩa là mọi sự, mọi việc trong toàn truyện đều được lý giải theo tiền đề.
    Như trên đã nói, truyện Thánh Gióng được trình bày sâu kín hơn, nhưng toàn truyện vẫn giữ theo thể cách cuốn chiếu. Lúc ở dạng này, lúc ở dạng khác, đòi hỏi người đọc phải có chiều sâu suy luận, có một tâm tưởng đặc thù Á Đông để hiểu được tư tưởng Á Đông.
    Trở lại câu truyện Thánh Gióng, có khi nào ta đặt một vấn đề rất bình thường trong câu truyện như việc “một bàn chân ướm thử một bàn chân?”. Đúng ra cả câu là bàn chân của một bà già (vì tuổi thọ trong thời điểm lúc đó như vậy là quá già, thất thập cổ lai hy), ướm thử bàn chân của mình vào một bàn chân to lớn dị thường rồi thụ thai.
    Ở đây, chúng ta thử nhìn qua một số các câu truyện thần thoại của các dân tộc trên thế giới. Việc một người phụ nữ (thông thường là các cô gái trẻ đẹp) được thánh tích, hay do ăn một loại trái cây, uống một hớp nước thần, hoăc có khi cô gái đi lại với thần linh mà sinh ra các bậc kỳ tài. Đó là việc bình thường, không mang được một ý nghĩa nhân bản. Đặc biệt, trong truyện Thánh Gióng, người đàn bà đây lại là một bà già, nghèo khổ (vì bà lo cho con ăn không đủ nên phải cậy nhờ vào làng xóm lúc Gióng chuẩn bị xuất chinh). Bà chỉ ướm thử bàn chân nhỏ xíu, gầy guộc của mình vào một bàn chân to lớn (không hề nói là bàn chân thần thánh), mà sinh ra con. Như vậy, ta phải hiểu như thế nào?
    Bàn chân của người đàn bà già cả yếu đuối, nghèo khổ này có phải chăng là hình ảnh thực tế của một kẻ nhu nhược và là đặc tính của Âm tố?
    Còn bàn chân to lớn kia có phải là biểu tượng của một ý chí vượt thoát, một ước mơ cao cả, vĩ đại? Ở đây không phải là bằng một ước mơ viễn vông, không tưởng mà bằng vào chính bước chân quả cảm của mình để xây dựng một tương lai, một tương lai tốt đẹp bằng chính bước chân khẳng khiu yếu đuối song đầy nghị lực cộng với lý trí sáng suốt của mình? Có phải đó chính là đặc tính của Dương tố?
    Bàn chân to lớn của ngày mai ấp ủ trong bàn chân nhỏ bé của thực tế hôm nay, người đàn bà già cả này hẳn phải thừa hiểu rằng, bản thân bà không thể tự lực trực tiếp làm nên được một kỳ công. Lý trí đã hướng dẫn, cộng với sự phối triển thiên nhiên đã cho bà một cậu con trai (ta có thể hiểu đứa con này của bà là con nuôi, hoặc có thể hiểu rằng đứa con này chỉ là hư cấu cho một tư tưởng vĩ đại đã tác động đến cả một dân tộc). Có phải đây là đặc trưng của sự phối triển?
    Bây giờ ta xét đến cậu bé Gióng. Gióng là một cậu bé ba tuổi, và cậu lại càng bé hơn nhiều so với những trẻ cùng tuổi. Nói theo thời đại cậu thuộc loại chậm phát triển, vì đã ba tuổi mà vẫn chưa biết lẫy, biết nói, biết cười. Còn nói theo ý nghĩa thần thoại, cậu thuộc loại khác đời. Bởi vì trong cậu hàm chứa một con người có cơ thể vĩ đại mà sau này chỉ cần vươn vai cậu đã có thể cao lớn không ngờ.
    So sánh với sự mô tả về mẹ cậu, tuy ở hai dạng khác nhau, nhưng cùng chung cách diễn tả: đó là lối tương phản. Cái Âm thì tuyệt đối nhu nhuyễn, nhỏ bé, yếu ớt nhưng lại hàm chứa cả một đại thể tuyệt đối cứng rắn, vững vàng, to lớn. Âm không tách lìa khỏi Dương. Dương không xa rời khỏi Âm, để rồi kết quả ra sao nếu không có sự vận dụng của lý trí?
    Trong truyện, người mẹ đã dùng lý trí để cả tin vào con mình mà dâng lời cầu tiến lên vua Hùng (mặc dầu yếu tính của người đàn bà trong mẹ cậu vẫn còn run sợ phần nào trước sự ưng thuận của vua Hùng). Và nếu không có sự vận dụng lý trí của vua Hùng có dám khẳng định cậu sẽ thắng được giặc Ân? Ở đây hẳn ta đã thấy được cái ý nghĩa đích thực của tổ tiên người Việt: “Có phải cậu bé Gióng chính là biểu hiện của cậu bé Việt Nam bé nhỏ đang trầm tĩnh suy tư tìm phương cách cứu nước và giữ nước trước người khổng lồ phương Bắc luôn luôn lăm le thôn tính phương Nam?”
    Cái bé bỏng của cậu là một nhược điểm, song trong nhược có cường. Điều cốt yếu là tìm được cái cường trong cái nhược để từ đó rèn luyện, nung nấu nó, chờ thời cơ thuận tiện đem ra ứng xử. Hay ta có thể hiểu ở một hình thái khác hơn. Ta vẫn biết rằng các câu truyện cổ tích Việt Nam trong cái phi lý đều hàm chứa một sự hữu lý. Câu truyện cậu bé con chỉ mới ba tuổi đầu mà đã xin ra đánh giặc dữ đã là một điều phi lý. Lại thêm một điều phi lý nữa khi cả vua, quan triều đình đều chấp thuận. Vậy thì cái hữu lý nằm ở đâu?
    Ngoài tính chất triết học như trên đã nói, chúng ta có thể quả quyết rằng tổ tiên người Việt đã sử dụng phương pháp tương phản để khích lệ tinh thần yêu nước của toàn dân. Kìa! một đứa trẻ ba tuổi mà đã biết xả thân trừ giặc dữ để cứu nước, an dân thì những người trai trẻ khoẻ mạnh, và những người được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi há chỉ biết vinh thân phì gia, chỉ biết cúi luồn cho qua cơn bão táp đang cuồng nộ ập đến trên quê hương sao?
    Sau nữa, ta cũng nên khảo qua về cây tre trong câu truyện, đồng thời cũng là biểu tượng cho triết học Cương Nhu phối triển của Vovinam - Việt Võ Đạo. Nhắc lại, trong câu truyện: ”Khi đang chém giặc thây nằm ngỗn ngang, thì cây kiếm của Gióng bị gãy làm đôi; tiện bụi tre bên đường, Gióng nhổ luôn cả bụi vừa quăng, vừa quật giết giặc cho đến khi giặc Ân hoàn toàn tan rã”.
    Câu truyện ở đây lại đặt cho ta một nghi vấn. Tại sao không kết thúc bằng lưỡi gươm của Gióng, mà lại phải cho gãy gươm để phải nhổ bụi tre làm vũ khí? Cũng có thể chỉ là để minh chứng cho câu truyện trở thành hiện thực qua các bụi tre tồn tại nhiều đời mọc rải rác khắp vùng Sóc Sơn – Võ Ninh.
    Nhưng cũng có thể là đặt để một biểu tượng cho một nhân sinh quan. Ai cũng biết tre, trúc là biều tượng cho người quân tử của Nho giáo. Tre, trúc vốn là một loài cây rỗng ruột, thẳng đứng dầu mọc ở vị trí bất thuận lợi nào. Ruột thẳng và trong trắng như lòng người quân tử. Tre, trúc không chịu ngả nghiêng, không thể uốn nắn cho cong, chẳng khác gì người quân tử không chịu dời đổi ý chí, đạo đức trước mọi nghịch cảnh hay cám dỗ của cuộc đời.
    Hơn nữa, Gióng đã chọn một vật thể bao hàm cả tính chất cương, nhu là cây tre làm binh khí. Thân tre thẳng và cao mà không bị gãy là nhờ thớ tre dẻo và thân tre mềm dễ uốn lượn theo chiều gió. Gốc và rễ tre cứng bám chắc, chằng chịt vào đất mà không sợ tróc đổ. Và không như hầu hết các loại cây chỉ đứng riêng rẽ một mình, tre luôn tự tạo thành bụi, gốc liền gốc, rễ đan rễ, tuy chen chúc nhưng không hề giành giật đất
    sống, cũng như nắng trời để tàn hại nhau.
    Quê hương của tre là Việt Nam. Việt Nam nuôi dưỡng và sử dụng tre trong muôn mặt của đời sống. Ăn cơm bằng hạt tre, thổi cơm bằng ống tre, đun nấu bằng lá tre, gốc tre, ở nhà tre, nằm giường tre, đi guốc tre, thậm chí tiêu khiển, giải trí cũng bằng tre (ống tiêu, ống sáo, đàn, diều …) và cuối cùng là giữ nước cũng bằng tre (cung, nỏ, tên, chông, bẫy, gậy, gộc...).
    Vì những ý nghĩa trên, Vovinam - Việt Võ Đạo ngoài phần khai thác nền triết học từ thời cổ đại của người Việt, đồng thời cũng lấy cây tre làm biểu tượng Cương Nhu phối triển như ý hướng của tổ tiên đã chọn lựa và đặt để trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương.


    Võ Sư Nguyễn Văn Sen

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

     

Quuyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts