Hồn quê giếng làng
Dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, xây bằng gạch, đất hay đá ong, giếng vẫn là nơi gắn bó với đời sống người dân đồng bằng Bắc Bộ và mãi là hình ảnh thân thương, gần gũi trong tâm thức mọi người khi nhớ về làng quê.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà hình ảnh giếng làng cứ đi về trong nỗi nhớ của những người xa quê. Cái giếng có mặt trong đời sống của người Việt bắt đầu bằng câu chuyện cổ tích khi cô Tấm nuôi giữ con cá bống. Rồi giếng thành huyền thoại khi Trọng Thủy gieo mình tự vẫn, giải oan cho tình yêu của nàng Mỵ Châu...
Giếng đất ở xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây vẫn sạch và đẹp như xưa bên mái đình. Ảnh: N.B
Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Dân gian, thì chiếc giếng làng của đồng bằng Bắc Bộ nằm trong quần thể không gian kiến trúc đình chùa. Giếng làng có hai loại chính: giếng đất và giếng đá. Hiện chiếc giếng đá có tuổi thọ cao nhất (trên 300 năm) là giếng rồng chầu ở làng Mông Phụ (Sơn Tây, Hà Tây).
Cái giếng giữ phần âm của làng. Bản thân cấu trúc hình tròn, chiều sâu đi vào lòng đất, vị tanh hơi ngọt và độ lạnh của nước giếng đã nói lên điều đó. “Hơn nữa, giếng đôi khi còn là cái gì đó linh thiêng và thần bí. Trên đền Hùng giờ vẫn còn giếng Ngọc. Các bà các cô bảo nhau ngọc trai vớt ở sông đem đến đây rửa sẽ rất sáng”, giáo sư Ngô Đức Thịnh khẳng định.
Chính vì vậy, trong tâm thức người Việt, giếng không chỉ là con mắt của đất, nó là trái tim của làng, cái hồn của xóm. Giếng nước là nơi tụ hội nguồn sống, nơi tích phúc để dân làng ăn nên làm ra. Trong sinh hoạt đời thường, người ta lấy nước giếng về dùng trong sinh hoạt, làm gương soi cho các cô gái làm duyên.
Giếng đất ở xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây - nay chủ yếu dùng cho việc giặt giũ. Ảnh: N.B.
Để có được nguồn nước dồi dào, trong sạch, người ta phải chạm được vào “túi” nước. Người xưa đào giếng ăn mạch dọc chứ không theo mạch ngang. Trước khi đào giếng, người ta chọn buổi tối hanh khô, dùng những cái bát ăn cơm úp lên mặt đất. Sáng ra, bát nào có nhiều hơi nước nhất là nơi mạch nước mạnh nhất và có thể đào giếng. Giếng ở đồng bằng, độ sâu thường chừng 6 - 8 m.
Người dân vùng Đồng bằng Bắc Bộ có ý thức rất cao trong việc giữ gìn giếng và chất lượng nước. Lợi dụng mặt thoáng lớn và khả năng làm sạch chất hữu cơ nhanh của một số loài thực vật sống trong nước, giếng ở vùng ngoại thành Hà Nội và Sơn Tây (Hà Tây) thường được thả bèo tổ ong (cánh bèo xếp như tổ ong). Rễ bèo loại này hấp thụ mạnh chất bụi hữu cơ, làm sạch nguồn nước.
Dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, xây bằng gạch, đất hay đá ong, giếng vẫn là nơi gắn bó với đời sống nhiều nhất. Cuộc sống quần cư biến cái giếng trở thành tâm điểm của làng. "Người ta ra giếng lấy nước, tranh thủ hỏi nhau về công điểm, về lứa lợn, về chuyện nhà ông nọ làm đám bao nhiêu mâm, con gái bà kia lấy chồng tốt số. Trai gái làng ra giếng tranh thủ chòng ghẹo nhau hay hẹn hò", giáo sư Thịnh giảng giải thêm.
Giếng đất ở xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây - nơi có giai thoại về Rùa Thần rất thiêng nơi đáy giếng. Ảnh: Nguyễn Bình
Cái giếng làng chứng kiến bao nhiêu cuộc tình của nhiều thế hệ. Dân gian nhiều lần mượn nó mà ngỏ lòng. Lúc thì nhỏ nhẹ "Năng mưa thì giếng năng đầy/ Anh hay đi lại mẹ thầy năng thương"; lúc lại hờn giận "Em tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài/ Đâu ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây"; lại có khi phân bua: "Tới đây dây vắn gầu thưa/ Hỏi người cố cựu giếng xưa ai đào/Giếng này là giếng cựu trào/ Hồi tôi còn nhỏ tôi nào biết đâu"…
Sự phát triển khoa học kỹ thuật cùng với điện khí hóa nông thôn đã làm cho những chiếc giếng làng hầu hết trở thành… di tích. Tuy vậy, giếng nước - người bạn tri ân bao đời nay - vẫn mãi là những hình ảnh thân thương, gần gũi trong tâm thức mọi người khi nhớ về làng quê.
Vân Nhi - Nguyễn Bình