+ Trả Lời Ðề Tài
kết quả từ 1 tới 3 trên 3

Ðề tài: Phan Châu Trinh

  1. #1
    Tham gia ngày
    Oct 2007
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    354
    Thanks
    0
    Thanked 5 Times in 5 Posts

    Default Phan Châu Trinh

    Tiểu Sử Phan Châu Trinh


    Phan Châu Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên hiệu Tự Ðức 26, tự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, quê ở xã Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam .Thân phụ ông là Phan Văn Bình, theo nghề võ và đã tích cực chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương . Thân mẫu là Lê Thị Chung, con một nhà thế gia vọng tộc tại làng Phủ Lâm rất tinh thông Hán học và có nhiều đức hạnh .

    Thuở thiếu thời Phan Châu Trinh được hiền mẫu ân cần chăm sóc, trong khi phụ thân mãi lo công việc võ biền . Chẳng may mẹ mất sớm, vì cha phải bận với võ nghiệp, ít săn sóc đến việc học hành hành nên mãi đến năm lên 10, Phan Châu Trinh mới được vào trường học tập.Vì mối tình yêu nước sớm nẩy nở trong trí của Phan Châu Trinh nên trong lúc các bạn đồng học chăm chỉ ngốn những lời giảng dạy của thầy để nhồi vào óc đạo lý và chữ nghĩa của Thánh hiền, ông tỏ ra rất xao lãng, thờ ơ . Do đó, trong suốt ba năm liền học tập, Phan Châu Trinh chỉ học lấy lệ Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải chạy trốn ra Quảng Trị . Các đạo Cần Vương kháng Pháp nổi lên khắp các nơi . Ðể cho Phan Châu Trinh có một nghề hợp khả năng và cũng đồng thời được đắc dụng trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân phụ ông cho ông theo học nghề võ . Lúc bấy giờ thân phụ ông được cử làm Chuyển vận sứ đồn A Bá thuộc hạt Tam Kỳ .

    Năm 1887, vì nghi kỵ, thân phụ Phan Châu Trinh bị hại, việc học tập võ nghệ của ông bị gián đoạn. Nhờ người anh cả rước thầy về cho ông tiếp tục học nghề văn . Vì nhận thấy muốn có uy tín để thực hiện chí lớn tron việc cách mạng để giành lại chủ quyền của đất nước, nên ông đổi sang học nghề nghiên bút, chớ thực ra ông không bao giờ thích cái lối học hư văn .Theo học bốn năm ở nhà . Phan Châu Trinh tỏ ra thông minh tuyệt vời, ông thường có những lý luận sâu sắc , những nhận xét tinh vi .

    Năm 1889, theo thụ nghiệp với vị Ðốc học Trần Mã Sơn, Phan Châu Trinh được bổ vào ngạch học sinh .

    Năm 1900, trong kỳ thi Hương, Phan Châu Trinh thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông đỗ Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái thứ 13).

    Ông được bổ làm Thừa Biện ở Huế, ít lâu sau, người anh cả của ông mất, ông xin về quê dạy học . Năm 1903, ông được bổ làm Thừa Biện ở Bộ Lễ . Trong thời gian từ 1902 đế 1905, Phan Châu Trinh có dịp học những tác phẩm có tư tưởng cách mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire … Càng tiếp xúc nhiều với các quan trường, Phan Châu Trinh càng thấy rõ cảnh thối nát , hủ bại trên đường cử nghiệp .

    Lúc bấy giờ lực lượng Cần Vương lần lần tan rã, thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị trên đất nước Việt Nam .Trước cảnh non sông nghiêng ngửa, nhận thấy sự bất lực và thối nát của triều đình Huế, Phan Châu Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động chính trị với các ông Phan Bội Châu, Lương Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp . Sau khi từ quan về hoạt động chính trị, Phan Châu Trinh đã cùng với hai bạn đồng khoa là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau vào Nam vận động đồng bào các giới . Vào đến Bình Ðịnh gặp lúc quan tỉnh mở một kỳ thi cho học trò, đầu bài là Chí thành thông thánh và Lưỡng Ngọc danh sơn ba ông mạo tên là Ðào Mộng Giác nộp quyển làm bài Phan Châu Trinh làm bài thơ và hai ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú . Những bài này không theo quy tắc thông thường mà cốt để thức tỉnh nhóm sĩ phu . Quan tỉnh không dám quả quyết phải dịch sang chữ Pháp để trình viên Khâm sứ đồng thời truy tầm tác giả của hai bài văn cách mạng kia, nhưng không có kết quả Việc này đã có ảnh hưởng lớn đến đám sĩ phu thời bấy giờ . Tới Phan Thiết, Phan Châu Trinh bị bệnh phải quay trở về Huế . Sau mấy tháng dưỡng bệnh, ông ra Bắc tìm cách lên Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám, nhưng chính sách bạo động của Hoàng Hoa Thám không thích hợp với chủ trương của ông, nên ông lại xuống Trung Châu Bắc Việt vận động với nhóm nho sĩ Bắc Hà . Ðâu đâu ông cũng đề xướng chủ trương tân học, cực lực đả kích các quan trường tham lam và những nhà hủ nho . Trong thời gian này ông kết nạp được một số đồng chí đáng kể . Phan Châu Trinh tán thành phong traò xuất dương du học do Phan Bội Châu khởi xướng . Lời kêu gọi của Phan Bội Châu, với sự hưởng ứng của Phan Châu Trinh gây được một phong trào xuất dương rất rầm rộ . Ðể được quan sát tại chỗ sự tiến triển của các nước, Phan Châu Trinh liền trốn sang Trung Hoa . Ông gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi hai ông cùng sang Nhật. Ở đó được 10 tháng, ông lên đường về nước (năm 1906) . Phan Châu Trinh quyết đứng ra tranh đấu công khai với chính quyền bảo hộ Pháp . Ngày 15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906) , ông gởi lên Toàn Quyền Pháp ở Ðông Dương một bức thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau đây :

    - Do sự dung túng của chính quyền Bảo Hộ mà những bọn tham quan ô lại lộng hành khiến cho người Việt Nam bạc nhược suy yếu .

    - Chính quyền Bảo Hộ đã dùng một chính sách bạo ngược, tàn ác đối với dânViệt Nam, không tôn trọng sinh mạng con người, muốn chém giết ai tùy ý .

    - Do những cách đối xử tàn ác này, mà bọn quan lại lợi dụng quyền thế bắt nạt dân chúng, tìm cách vơ vét cho đầy túi tham, gây nên một tình trạng bi đát trong dân chúng. Bức thơ của Phan Châu Trinh đã có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng . Ông bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào tổ chức nhiều buổi diễn thuyết tại trường Ðông Kinh Nghĩa Thục . Thực dân Pháp để ý căm thù và triều đình Huế cũng rất bực tức quyết tìm cách hãm hại ông. Nhưng Phan Châu Trinh vẫn không màng đến, ông đứng ra lãnh đạo phong trào duy tân, khuyến khích đồng bào mở trường dạy học, lập các hội buôn như Ðông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm hóa được rất nhiều nhân sĩ . Phan Châu Trinh lại hô hào thanh niên vận Âu phục , cắt tóc ngắn, ủng hộ các sản phẩm và hàng nội hóa để giúp cho nền kinh tế trong nước được dồi dào . Ða số thanh niên trong toàn quốc đã nhiệt liệt hưởng ứng phong trào duy tân này .

    Năm 1908, tại tỉnh Quảng Nam phong trào kháng thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các tỉnh miền Trung Việt. Ðầu mùa Xuân năm 1908, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Ðông Kinh Nghĩa Thục . Nhân việc kháng thuế ở Quảng Nam, vốn đã không ưa Phan Châu Trinh vì ông đã nhiều lần đả kích và nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn quan lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho ông “xui dân làm loạn” và “phá rối” liền bị hạ lệnh bắt ông … Rất nhiều nhân sĩ bị bắt, và trong dịp này, ông nghè Trần Quý Cáp bị Nam Triều lên án xử chém tại Nha Trang . Riêng Phan Châu Trinh bị bắt đem về giam tại tòa Khâm Sứ. Ðể phản đối hành động khủng bố của thực dân, Phan Châu Trinh tuyệt thực trong bảy ngày . Nhận thấy tình thế khó xử, viên Khâm Sứ Pháp phải giao trả ông về Cơ Mật Viện của tòa án Nam Triều, ông bị bọn quan lại kết án tử hình . Nhờ có hội Nhân Quyền can thiệp với chánh phủ Pháp. Chính quyền Bảo Hộ phải điều đình với Nam Triều đổi bản án “tử hình” ra “Côn lôn ngộ xá bất nguyên” (bị đày ra Côn đảo mãn kiếp không được ân xá “. Bỏ giam ở nhà lao Phủ Thừa được it’ lâu, Phan Châu Trinh bị đày đi Côn đảo . Lúc đi ngang qua cửa Thượng Tứ (Huế), ông đã ngâm bốn câu thơ bằng chữ Hán mà ông Phan Khôi đã dịch như sau:

    Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
    Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn
    Ðất nước hãm chìm dân tộc héo
    Làm trai đâu xá thứ Côn-lôn

    Trong cảnh tù đày, nhưng Phan Châu Trinh rất được chính phủ Pháp trọng đãi và kính nể. Chính viên Thống Ðốc Nam Kỳ đã ra tận Côn đảo để tìm hiểu lập trường tranh đấu của ông . Năm 1910, nhờ có hội Nhân Quyền Pháp (do sự vận động của ông Ernest Babut trong 3 năm trời) can thiệp ráo riết với chính phủ Pháp, thủ tướng Pháp lúc bấy giờ là Klobulowsky và Tổng trưởng Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội đồng để xét án Phan Châu Trinh . Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau được cử làm chánh án . Mặc dù đã được ân xá, nhưng ông cũng bị thực dân Pháp tìm cách giữ mãi tại Mỹ Tho .Ông phản kháng và cương quyết đòi trở về Côn Ðảo . Chính phủ Pháp đành phải để ông tự do .Vì muốn tranh đấu có hiệu quả trong việc cải cách nền chính trị nước nhà và đồng thời để được học hỏi thêm, năm 1911, Phan Châu Trinh đã sang Pháp với Toàn Quyền Klobulowsky, cùng theo ông có người con trai tên là Phan Châu Dật .

    Tại Ba Lê, ông gởi con vào trường học còn ông thì lại làm nghề rửa ảnh để sinh sống .Dù cho phải sống xa quê hương, ông vẫn không ngừng hoạt động tranh đấu cho đất nước. Ông viết báo Pháp phản đối việc đào lăng Tự Ðức, yêu cầu chính phủ Pháp nên cấp tốc thay đổi chính sách thuộc địa, giáo dục tinh thần tranh đấu của Việt kiều tại Pháp . Ông tìm cách liên kết với các lãnh tụ thuộc đảng cấp tiến ở Pháp . Ông không tiếc lời đả kích những nạn tham nhũng thối nát của thực dân Pháp ở Ðông Dương và chỉ trích chính sách cai trị của họ . Phái khuynh tả ở Pháp rất tán thành việc làm của Phan Châu Trinh, nhưng các quan lại ở các thuộc địa Pháp rất căm thù và oán ghét . Tiền trợ cấp của ông và tiền học bổng của con ông là Phan Châu Dật đều bị truất, đó là kết quả sự trả thù của thực dân .Hai cha con ông phải sống kham khổ và vất vả với số lương rửa ảnh của ông hàng tháng là 50 quan . Dù phải sống trong cảnh đói rét, khốn khổ đủ mọi bề, Phan Châu Trinh vẫn cương quyết tranh đấu cho lý tưởng cao cả .

    Năm 1914, chiến tranh Pháp Ðức bộc phát, tại quê nhà vua Duy Tân nhân cơ hội đó gây biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém . Vua Thành Thái và Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion .Vì không chịu đi lính cho Pháp để đánh Ðức, Phan Châu Trinh bị vu cáo là làm gián điệp cho Ðức, nên ông bị bắt giam vào ngục SANTE . Nơi đây ông bị hăm dọa đủ điều, nhưng tấm kiên trung vẫn không bao giờ thay đổi . Dùng võ lực không được, người ta đã đem tiền bạc, quyền tước để mua chuộc ông , nhưng cũng vô hiệu quả . Nhờ sự can thiệp của Ðảng Xã Hội và Hội Nhân Quyền Pháp, năm 1915 chính phủ Poinceré phải ký giấy phóng thích ông. Vừa thoát khỏi cảnh giam cầm, Phan Châu Trinh lại phải khóc con . Phan Châu Dật sau 6 năm học tập đã thi đỗ bằng Tú Tài Vật Lý Học, được cha ủy thác sứ mạng về nước để hoạt động . Vì bao năm sống thiếu thốn đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao phổi . Về đến quê nhà chưa đầy một năm, Chu Dật mất .

    Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, Phan Châu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm và đáng tội chém đầu .Có đoạn ông đã viết : “… Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi … ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ hạ , để tỏ ý phản đối .” Bức thư của ông, sau khi được công bố, khích động được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước .

    Năm 1925, chính phủ Pháp nhận thấy Phan Châu Trinh là một người ái quốc chân chính có chính sách ôn hòa, nên có ý muốn giúp đỡ ông . Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đã có cảm tình với ông được thắng phiếu trong cuộc bầu cử Nghị Viện và lên nắm chính quyền . Thấy cơ hội thuận tiện cho mình đem tài trí ra giúp dân giúp nước, ông xin trở về quê nhà và được chính phủ Pháp chấp nhận.

    Về đến Saigon, Phan Châu Trinh có ý định ở lại trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung Bắc để hoạt động. Dù tuổi già sức yếu, bệnh hoạn vì bao năm sống vất vả thiếu thốn ở Pháp, Phan Châu Trinh vẫn hăng hái tranh đấu . Ông vận động với nhà cầm quyền Pháp để xin ân xá cho Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải và sửa soạn hai bài diễn văn để đọc trước công chúng :

    1. Ðạo đức và luân lý Ðông Tâỵ

    2. Quân trị chủ nghĩa, dân trị chủ nghĩạ

    Hai bài diễn văn trên đây đã bày tỏ được chính kiến của một nhà cách mạng chân chính, với lòng yêu nước nhiệt thành . Ngày 24-12-1925, sau khi hay tin việc vận động xin ân xá của quốc dân đã có kết quả và Toà Quyền Varenne đã ký giấy ân xá Phan Bội Châu . Phan Châu Trinh định ra Huế để được gặp người bạn đồng chí để cùng nhau tâm sự, nhưng ông bị đau không đi được . Các sinh viên trường Ðại học Hà Nội đánh điện văn mời ông ra Bắc để diễn thuyết . Chưa kịp đi thì ông được biết tin vua Khải Ðịnh mất . Phan Châu Trinh đánh điện tín cho Pasquier Khâm sứ Trung Kỳ hay ông sẽ ra để lo việc cải tổ triều chính và lập dân đảng .

    Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Châu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng . Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách mạng ái quốc Phan Châu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi . Một Hội đồng trị sự được thành lập ngay đêm đó để lo việc an táng cho ông ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Châu Trinh rất trọng thể để chứng tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước .

    Nguồn: XuQuang.com
    Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở

  2. #2
    Tham gia ngày
    Oct 2007
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    354
    Thanks
    0
    Thanked 5 Times in 5 Posts

    Default

    Phan Châu Trinh: Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây (Diễn thuyết tại Sài Gòn đêm 19.11.1925)

    Thưa các anh em đồng bào!

    Anh em đồng bào thấy tôi là người tuổi tác, ở lâu năm bên Pháp về, anh em đồng bào có lòng quá yêu, nhường cho tôi bước đầu lên diễn đàn nhà hội “Việt Nam” ta đây, để tỏ ý kiến là hy vọng của tôi đối với xã hội Việt Nam ta từ ấy đến giờ, thì tôi rất lấy làm cảm tạ vô cùng.

    Không nói, tưởng anh em đồng bào cũng đã biết tôi vì quyền lợi của dân tộc Việt Nam mà phải lăn lóc đến mười tám năm nay. Trong khoảng 18 năm đó (hơn 14 năm ở Pháp) thường mong mỏi được gặp mặt anh em đồng bào cố hương, đặng tỏ chút ý kiến viề những sự đã được nghe thấy trong khi tôi trôi nổi nơi đất khách quê người. Không ngờ giấc mộng được thành, trở về nơi chôn nhau cắt rốn, giáp mặt anh em đông đủ thế này. Tôi mừng quá.

    Thưa anh em đồng bào, nay tôi đã được gặp anh em đông đủ ở đây, tôi xin anh em cho phép tôi được giải bày đôi chút ý kiến về “Đạo đức luân lý Đông Tây” mà mong rằng anh em để ý hiểu cho. Đáng lẽ theo thời nay, không thiếu chi vấn đề rất quan trọng làm rung động các dân tộc trên toàn cầu, tôi có thể nói chuyện cùng anh em được, thế mà tôi lại không lựa đến mấy vấn đề mới mẻ ấy, chỉ chọn lấy cái vấn đề “Đạo đức và luân lý” rất tầm thường mà rất cũ kỹ thế này.

    Tôi chọn lấy vấn đề này, là vì tôi tưởng rằng từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng những thuần nhờ sức mạnh thôi, mà phải nhờ cái đạo đức làm gốc nữa; nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng lên khỏi bị người đè lên trên thì lại cần có một đạo đức vững chặt hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình.

    Câu chuyện đạo đức tôi sẽ giải ra sau này không cao xa gì, mà cũng không như câu chuyện đạo đức các ông thuộc về phái thủ cựu thường đã nói. Đạo đức đây chỉ là: “Phàm đã là một dân tộc sinh tồn trên hoàn vũ, đã có một lịch sử chính đáng, thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình”, nghĩa là giữ lấy những đức hay tính tốt mấy trăm nghìn năm ông cha để lại, khiến cho nuớc nào dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại là một cái tính chất của một dân tộc đã trải lâu năm kết tinh lại như hòn ngọc mài không mòn, như sắt nguội đánh không bể thì mới gọi là đạo đức được.

    ***

    Thưa các anh em đồng bào!

    Tôi lâu nay lưu lạc, bây giờ trở về mới liếc mắt trông qua vài hiện trạng của mước nhà ta, tôi rất lấy làm buồn lắm. Than ôi! Cái đạo đức cũ đã mất từ bao giờ không khác gì trái cây khô, mà đạo đức mới cũng chưa hình thành gì cả. Thử xem các ông cựu học thì bo bo nói rằng phải buộc bọn thiếu niên tân tiến theo đạo đức cũ. Nhưng chán thay, các ông chỉ nói thế thôi, xét ra thì những lễ, nghĩa, liêm, sỉ các ông bỏ mất không biết gì đến rồi, mà đạo đức cũ ông cha ngày xưa để lại cũng theo dòng nước chảy xuôi, Đó là nói các ông không biết giữ gìn đó thôi, chớ như đem ngay cái luân lý cũ kỹ mấy nghìn năm trước mà so sánh với luân ly của thế giới ngày nay thì cũng trái ngược lắm rồi. Còn các bạn thiếu niên thấy ông lù khù như thế lại càng làm giàu thêm cái tính kiêu căng, học được chút ít đã vội tưởng mình hơn các cụ già rồi, không giữ gìn tính nết, thành ra cách ăn ở Tây không ra Tây, mà Nam cũng không ra Nam. Điều này không chỉ tôi nói ra đây mà thôi, chính người Pháp ở thuộc địa lâu ngày viết sách chê đến đã nhiều.

    Anh em ta đây tất cũng thấy người ta thường nhóm năm nhóm bảy với nhau rằng cái tính của người Tây kiêu ngạo hay khinh người, nhưng ta hãy tự hỏi ta điều đó, ta xem cách ta ăn ở có đáng cho người ta kính trọng không? Sự đó không thiếu gì là gương cũ ta có thể kể ra được. Đã mấy mươi năm nay, nhờ cái phong trào của thế giới xô đẩy mà trong nước ta cũng có đảng Thủ cựu, đảng Duy tân, đảng Hòa bình, đảng Kịch liệt làm ồn ào cả lên mà rút cục lại chẳng thành hiệu quả gì. Đến khi đổ vỡ ra thì thấy toàn những đầu trâu mặt ngựa cả, chỉ bêu xấu cho cái danh giá của dân tộc mình, khiến cho người ta trông vào thấy thế càng khinh dễ thêm, càng vày đạp thêm.

    Ông Khổng nói rằng: “Tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi” nghĩa là mình tốt thì trời đất giúp thêm cho, mà mình đã nghiêng đổ thì trời đất lại xô đạp thêm. Ông Mạnh cũng nói rằng: “Nhân tất tự vũ nhi hậu nhân vũ” nghĩ là mình có tự khinh mình thì người ta mới khinh mình. Vậy không trách mình thì còn trách ai! Bữa nay tôi chọn cái vấn đề này mà nói chuyện cùng anh em đồng bào, chính là vì cái chính ý đó.

    Xưa nay ta học chỉ đọc ngoài miệng thôi, ít khi chịu tách bạch cho phân minh từng nghĩa nên nhiều khi hiểu lầm. Như chữ đạo đức và luân lý ta thường cho là một nghĩa chớ không biết rằng đạo đức là đạo đức, luân lý là luân lý. Đạo đức gồm cả luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo đức mà thôi. Đã là người thì cần có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, cần, kiệm. Nhân là có lòng thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ là ăn ở cho có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói với ai cũng giữ lời cho người ta tin mình mới làm được việc, cần là làm việc siêng năng, kiệm là ăn ở dành dụm trong lúc no để phòng lúc đói, lúc có để phòng lúc không v.v.. Người có đạo đức là người ở trong đạo làm người vậy. Đạo đức như thế thi không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng giữ được cái đạo đức ấy mới là trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa, dầu chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hắc cộng sản nữa, cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đứcm nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.

    Luân lý thì không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý thì mỗi người mỗi khác. Thí dụ như nước ta về thời nhà Đinh lập được năm bà Hoàng Hậu mà đến các đời sau như Lê, Lý, Trần, Tây Sơn, Nguyễn, thì chỉ lập có một hoàng hậu mà thôi; như đời Trần thì người trong họ được lấy nhau mà tục ấy đời sau lại cấm. Đời nhà Trần khi nào trong nước có giặc thì vua triệu những bậc phụ lão trong nước vào điện để bàn bạc, mà đếc đời sau thì chỉ một lũ vua tôi làm chuyên chế với nhau mà thôi.

    Lại thí dụ như xứ này hễ cha mẹ chết thì đem ăn thịt hoặc đốt đi, mới gọi là hiếu, mà xứ khia thì phải làm đám táng có kèn trống linh đình mới phải đạo làm con. Xem những cớ đó thì đủ biết rằng luân lý có phải là thứ thiên niên bất dịch đâu mà kỳ thật có thể tùy thời mà thay đổi vậy. Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thể thay đổi được đạo đức. Ấy luân lý và đạo đức khác nhau là thế. Nói cho rõ hơn là luân lý như cái áo tùy người lớn nhỏ mà thay đổi, nhưng cũng không mất hình cái áo đi, chí như đạo đức là như cơm, như nước, như đồ bổ dưỡng, cần cho mọi người dẫu muốn thay đổi cũng không thay đổi được, nếu thay đổi được là đạo đức giả.

    Tôi giải rõ hai chữ luân lý và đạo đức khác nhau như thế là cốt ý sẽ bàn về sự thay đổi luân lý của nước ta và đề phòng khi anh em đông vào nghe đến “thay đổi luân lý” khỏi lấy làm giật mình. Trước khi tôi chưa giải rõ nghĩa hai chữ luân lý đạo đức, nếu tôi nói: “Ngày nay ta phải bỏ quân chủ lập dân chủ mới họp thời” thì chắc cũng có mấy ông hiểu lầm hai chữ luân lý là đạo đức đều ứng lên mà la rằng: “Bỏ quân chủ thì nền đạo đức cũ của nhà Nam ta cũng đổ nát theo còn gì!” Nhưng bây giờ thì anh em cũng không đến nỗi hiểu lầm như thế nữa.

    Vậy tôi xin bàn qua hai chữ luân lý Đông Tây:

    Luân lý của người Âu Tây dạy cho con trẻ phải thờ cha kính mẹ, thương yêu bà con họ hàng, tưởng cũng còn hơn cái luân lý của ta dạy bằng “Tam Tự Kinh” và “Tam Thiên Tự”. Luân lý của họ cũng không khác gì mình, duy theo pháp luật thì con trai con gái họ đến 21 tuổi là tuổi trưởng thành, thì có thể lìa cha mẹ mà độc lập được, nghĩa là “đến tuổi có nghĩa vụ mà trách nhiệm đối với luân lý quốc gia tất nhiên phải nhẹ gánh gia đình đi”. Người mình thấy luân lý của người ta khác mình và có lẽ lại sơ lược hơn mình thì cho là mọi rợ, chớ biết đâu khi xưa họ cũng như mình. Song từ khi cái tư tưởng quốc gia của họ đã tiến lên thì cái tư tưởng gia đình lần lần nhẹ bớt đi, ấy cũng là lẽ tiến hóa tự nhiên … Cũng như ngày nay cái phong trào xã hội bên châu Âu mạnh quá, khiến cho lắm nhà triết học đã nghĩ đến cách làm thế nào phá tan cái vòng gia đình chật hẹp kia, cho mọi người trong nước được bình đẳng, nghĩa là kẻ giàu người nghèo đều được giáo dục và sinh hoạt như nhau, không đến nỗi như ngày nay xa nhau một trời một vực, phá cái thành “phân cách” chặn ngang các hạng người như thế, là cốt giữ gìn trật tự trong xã hội và ai ai cũng được bình đẳng như nhau.

    Nói về quốc gia luân lý châu Âu

    Quốc gia luân lý châu Âu phát đạt từ hồi trung cổ nghĩa là từ thế kỷ thứ XVI nề quân chủ đang thịnh. Vua của họ hồi ấy cũng như vua của ta, nghĩa là tự thánh tự thần làm chuyên chế quá cho nên mới nảyra nhiều nhà đại triết học thuyết minh vua là gì, nước là gì, nói ra có giới hạn, rất phân minh, khiến cho ai nấy đềuhieeru quốc gia có quan hệ mà nhẹ bớt gia đình.

    Thứ hai là từ thời có dân tộc ở châu Âu đều có tính háo chiến cho nên thường lấy sự thắng trận làm vinh, thua trận mà làm nhục đánh nhau lung tung. Vì tính háo chiến đó, cho nên dân các nước bên châu Âu về thời đó, đều có một nền quốc gia luân lý rất bền chặt vững vàng.

    Ấy, quốc gia luân lý của họ mà thành là vì hai cớ đó.

    Đến bây giờ thì thời cuộc thịnh như đã suy, từ khi bốn năm đại chiếnn như vừa rồi, nước thua dân bị lầm than thì đã đành, mà nước được dân cũng lắm nỗi khốn thành ra trăm việc đều hư nát mà nào có ích cho ai! Vì thế nên mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại giáo ục đều biết rằng cái thời đại quốc gia đã qua, không thể duy trì được nữa đành phải bỏ mà tiến lên thời đại xã hội vậy. Tuy nước nào cũng có một đảng thủ cựu phản đối kịch liệt, nhưng cái phong trào xã hội bây giờ cuồn cuộn như nước nguồn đang đổ, thì làm sao ngăn lại được nữa. Cuộc đại thắng của xã hội luân lý sau này cũng là một việc dĩ nhiên.

    Ấy là bước tiến lên, bỏ quốc gia luân lý mà bước lên xã hội luân lý, cũng như khi bỏ gia đình luân lý mà tiến lên quốc gia luân lý vậy.

    ***

    Xã hội không phải là cái luân lý cường quyền của chính phủ đối với dân, cũng không phải là sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà chính là trong nước thì lấy người này đối với người kia, suy rộng ra thế giới thì lấy loài người đối với loài người.

    Trong buổi quốc gia luân lý bên Âu châu đang thịnh, có câu nói rằng: Một người đối với một người thì có công lý, còn một dân tộc đối với một dân tộc thì không có công lý, này nay lóng người xu hướng về xã hội luân lý thì lại có câu nói trai lại rằng: Một người đối với một người đã có công lý thì mấy trăm nghìn, mấy ức triệc người nhập lại thành một nước, tài nào lại không có công lý.

    Đó là tôi tỏ ra rằng chủ nghĩa xã hội luân lý hiện nay bên châu Âu đã mở mang như thế. Muốn cho dễ hiểu câu “trong nước người này với người kia” nghĩa là: người có giúp cho người không, người mạnh giúp cho người yếu như là: bên nước họ mấy nhà giàu bỏ tiền lập nhà thương, trường học cho con nhà nghèo; những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì hết sức bênh vực v.v… Nói tóm lại xã hội luân lý là sự suy tự lòng công đức mà công đức là suy ở tư đức mà ra.

    Vì sinh kế, vì lợi quyền, người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ. Tôi nói như thế chắc anh em nghĩ cho tôi bên Tây lâu rồi nên tán tụng như thế chăng. Xin thưa bên Âu châu họ cũng xấu chán, dân đức của họ cũng chưa đến nỗi hoàn toàn, song dân nào chọ có 30% hoặc 50% biết giữ luân lý thì tưởng cũng đủ gọi là họ có rồi. Phong tục họ có xấu mặc lòng, nhưng trong nước họ còn có đảng Thượng lưu biết lo đời, như mấy nhà đại chính trị, đại triết học, đại văn hào, đại giáo dục, đứng lên hô hào nào làm sách, nào viết kịch, nào làm báo, nào diễn thuyết. Cốt phá bỏ những chứng hư tật xấu của người đời, rồi bọn thiếu niên xã hội, bọn tiếu niên dân chủ cũng tán thành ó ré theo để lo cứu chữa những đồi phong ác tục trong nước. Chẳng những họ lo ở trong nước họ mà thôi, họ còn lo đến cả thế giới nữa.

    Lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?

    Bây giờ tôi xin đem cái luân lý của ta so sánh với luân lý của Tây-Âu.

    Trên tôi đã nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia dình hết ba, nghĩa là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu nói theo trí tưởng luân lý từ xưa để lại mà làm cho đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được. Như ông Khổng nói: “Cha con có thân, vợ chồng có biệt, anh em có thứ lớp” nếu ta theo thế mà diễn dịch ra, dẫu gia đình luân lý của ta hẹp hòi, không được rộng rãi chăng nữa, thì đáng lẽ phải tốt lắm mới là phải, chớ đâu có tồi bại thế này! Cái nền luân lý ở Á Đông, nhất là ở nước ta ngày nay đổ nát như thế là bởi các nhà vua chuyên chế làm sai hết cả đạo Khổng mà ra.

    Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lập mưu kép cả làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ. Một bọn hủ nho mắc cạn còn vẽ rắn thêm chân vào, đem những tư tưởng rất nông nỗi truyền bá ra để trói buộc dân gian. Như là: “Quân thần chí nghĩa bất khả đào ư thiên địa chi gian”, nghĩa là mình sinh ra xứ này phải đội ông vua lên đầu. Tư cách ông vua thế nào, các ông không cần biết đến. Hễ có cái huy hiệu là ông vua thì các ông đội lên thôi! Các ông đã tôn vua lên, tất nhiên các ông phải tôn cha lên mà nói: “Thiên hạ vô bất thị để phụ mẫu” nghĩa là trong trời đất không có cha mẹ nào quấy. Ôi hủ nho! Hủ nho! Cũng vì mấy câu tà thuyết của các ngươi mà gia đình luân lý của nước nhà ta ngày nay trụy lạc đến thế này.

    Tôi xin kể ra đây một chuyện rất tầm thường, mắt ta thường thấy, nhưng tưởng ít ai chủ ý đến. Chuyện ấy là chuyện bài ca và mấy bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu lòe loẹt trên nóc nhà người Nam ta ngày nay, những bức tranh gai mắt ấy, những câu ca rười tai ấy tả ra câu chuyện rất vô lý dị đoan bày rõ một cái án tội nhân của đạo đức Khổng Mạnh. Kẻ tốt quá, người xấu quá đã không nhằm vào đâu, mà những việc tả ra đó y như là quỷ thuật, không phải là sự ăn ở thật của loài người. Các anh em nghĩ thử bụi tre mùa đông lá đã rụng khô hết, khóc thế nào mà mọc được măng; nằm trên giá thế nào mà cá nhảy lên được? Những chuyện hoang đàng ấy tự là Quách Thủ Chính đời Minh làm ra chớ không phải đã lâu. Nhiều người mắc mưu của Thủ Chính đem các bức tranh ấy treo vào vách thay mặt cho đạo Nho, thế mà không ai dám chê bai đến. Luân lý gia đình như thế thì làm sao mà càng ngày càng lụn bại cho được. Ta thử nghĩ xem gia đình của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng của mình đã sinh ra, mình muốn thế nào thì phải thế. Đại kháicha mẹ không muốn lo việc đời, thì cũng không muốn cho con lo việc đời, cha mẹ không muốn đi xa nên cũng không muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi các ông lớn này, ông lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt con như thế, thật không còn gì là cho con một chút tự do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như các nhà nghèo thì dạy con thì tát, thì chửi, thì đánh thì nói rằng thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm như thế là nuôi cho con một cái tính phục tùng nô lệ. Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không khí trong trường học (tính mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.

    Trong luật ta cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra thì chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm cúi lo làm để nuôi cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu trung lưu thì ta không còn thấy chữ hiếu nữa.

    Bọn ấy thường nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho mang vào để che miệng thế gian, chớ không có một chút gì gọi là hiếu là thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là khóc mả, nào là ở dơ, nhưng kỳ trung có thương xót, có yếu đuối gì đâu, chỉ đem một trò giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ cũng không ăn ở thật lòng.

    Về đạo vợ chồng thì ta vẫn nói là “Phu xướng phụ tùy” là “Thiếu phụ dĩ thuận vi chính” hoặc “xuất giá tùng phu” song ta rút cuộc lại nhà nào thuận hòa tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức có tính các ngang nhau mới được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng đủ biết rằng cái sự gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người thì dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc người ta theo được.

    Bây giờ tôi xin đem cái luân lý của ta so sánh với luân lý của Tây-Âu.

    Trên tôi đã nói luân lý của ta có năm mà thuộc về gia dình hết ba, nghĩa là cha con, anh em, vợ chồng. Nếu nói theo trí tưởng luân lý từ xưa để lại mà làm cho đúng thì tưởng cũng không còn chỗ nào chỉ trích được. Như ông Khổng nói: “Cha con có thân, vợ chồng có biệt, anh em có thứ lớp” nếu ta theo thế mà diễn dịch ra, dẫu gia đình luân lý của ta hẹp hòi, không được rộng rãi chăng nữa, thì đáng lẽ phải tốt lắm mới là phải, chớ đâu có tồi bại thế này! Cái nền luân lý ở Á Đông, nhất là ở nước ta ngày nay đổ nát như thế là bởi các nhà vua chuyên chế làm sai hết cả đạo Khổng mà ra.

    Chẳng những vua quan chuyên chế mà thôi, họ còn lập mưu kép cả làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm độc ác ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ. Một bọn hủ nho mắc cạn còn vẽ rắn thêm chân vào, đem những tư tưởng rất nông nỗi truyền bá ra để trói buộc dân gian. Như là: “Quân thần chí nghĩa bất khả đào ư thiên địa chi gian”, nghĩa là mình sinh ra xứ này phải đội ông vua lên đầu. Tư cách ông vua thế nào, các ông không cần biết đến. Hễ có cái huy hiệu là ông vua thì các ông đội lên thôi! Các ông đã tôn vua lên, tất nhiên các ông phải tôn cha lên mà nói: “Thiên hạ vô bất thị để phụ mẫu” nghĩa là trong trời đất không có cha mẹ nào quấy. Ôi hủ nho! Hủ nho! Cũng vì mấy câu tà thuyết của các ngươi mà gia đình luân lý của nước nhà ta ngày nay trụy lạc đến thế này.

    Tôi xin kể ra đây một chuyện rất tầm thường, mắt ta thường thấy, nhưng tưởng ít ai chủ ý đến. Chuyện ấy là chuyện bài ca và mấy bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu lòe loẹt trên nóc nhà người Nam ta ngày nay, những bức tranh gai mắt ấy, những câu ca rười tai ấy tả ra câu chuyện rất vô lý dị đoan bày rõ một cái án tội nhân của đạo đức Khổng Mạnh. Kẻ tốt quá, người xấu quá đã không nhằm vào đâu, mà những việc tả ra đó y như là quỷ thuật, không phải là sự ăn ở thật của loài người. Các anh em nghĩ thử bụi tre mùa đông lá đã rụng khô hết, khóc thế nào mà mọc được măng; nằm trên giá thế nào mà cá nhảy lên được? Những chuyện hoang đàng ấy tự là Quách Thủ Chính đời Minh làm ra chớ không phải đã lâu. Nhiều người mắc mưu của Thủ Chính đem các bức tranh ấy treo vào vách thay mặt cho đạo Nho, thế mà không ai dám chê bai đến. Luân lý gia đình như thế thì làm sao mà càng ngày càng lụn bại cho được. Ta thử nghĩ xem gia đình của ta bây giờ thì cha mẹ coi con như của, nói rằng của mình đã sinh ra, mình muốn thế nào thì phải thế. Đại kháicha mẹ không muốn lo việc đời, thì cũng không muốn cho con lo việc đời, cha mẹ không muốn đi xa nên cũng không muốn cho con đi xa, cha mẹ muốn lòn cúi các ông lớn này, ông lớn nọ để con làm các sở cho vẻ vang thì cũng bắt con như thế, thật không còn gì là cho con một chút tự do. Ấy là tôi nói mấy nhà giàu, còn như các nhà nghèo thì dạy con thì tát, thì chửi, thì đánh thì nói rằng thương con cho roi cho vọt, mà không biết rằng làm như thế là nuôi cho con một cái tính phục tùng nô lệ. Khi còn ở trong gia đình thì thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không khí trong trường học (tính mình hay thích giao con cho một ông thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ, chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.

    Trong luật ta cho cha mẹ và chồng có quyền nhiều. Đạo cha con xem ra thì chỉ còn thấy những kẻ tay lấm chân bùn còn biết cắm cúi lo làm để nuôi cha nuôi mẹ, chí như bọn thượng lưu trung lưu thì ta không còn thấy chữ hiếu nữa.

    Bọn ấy thường nhiều mượn những lốt lễ nghĩa rất kỳ khôi của bọn tà nho mang vào để che miệng thế gian, chớ không có một chút gì gọi là hiếu là thuận cả. Nào là nằm đường, nào là chống gậy, nào là khóc mả, nào là ở dơ, nhưng kỳ trung có thương xót, có yếu đuối gì đâu, chỉ đem một trò giả dối diễn ra trước mặt mọi người mà thôi vậy. Chẳng những bọn ấy giả dối trong khi cha mẹ họ tử hậu mà trong lúc sinh tiền họ cũng không ăn ở thật lòng.

    Về đạo vợ chồng thì ta vẫn nói là “Phu xướng phụ tùy” là “Thiếu phụ dĩ thuận vi chính” hoặc “xuất giá tùng phu” song ta rút cuộc lại nhà nào thuận hòa tức là vợ chồng nhà ấy có đạo đức có tính các ngang nhau mới được thế. Nếu nhà nào vợ khôn hơn chồng thì vợ làm chủ. Xem đó thì cũng đủ biết rằng cái sự gầy dựng ra không theo tính tự nhiên của loài người thì dẫu có quyền chuyên chế mạnh đến đâu cũng không buộc người ta theo được.

    Thương nước thì phải tù tội (!) cho nên những nhà thế phiệt giữ mình cho đến nỗi uốn nắn con từ trong nhà, lấy sự lo việc đời, sự thương nước làm sợ. Sợ quá! Hình như nói đến sự đó thì phải bị khinh, bị nhục như kẻ cắp kẻ trộm vậy. Rất đỗi bây giờ người Nam đã ở dưới chính trị Pháp là giống người cho sự thương nước làm tính tự nhiên của loài người mà cũng không ai dám nói tới; xem chừng còn lo sợ hơn khi còn ở dưới quyền chuyên chế nữa. Có người cho lời tôi nói là chuyện chiêm bao, cãi lại rằng: ở bên Pháp người ta dạy thương nước như thế, chớ bên này thì người ta không dạy như thế đâu. Hễ ai nói đến thương nước thì trong sổ kín của sở mật thám đã ghi tên vào rồi; họ cho là phản Tây làm loạn, như thế bảo người Nam không sợ sao được?

    Việc đó tôi cũng đã biết chán, tôi xin thưa rằng cái lỗi ấy bởi ông cha ta để lại. Cái “dây xiềng sắt” ấy chính tay ông cha ta đã làm ra để buộc ta. Người ta nhân lấy đó mà cột mình, nào có phải người ta bày đặt ra hay là mang ở bên Pháp qua mà cột mình đâu! Họ làm như thế vì họ thấy mình không trả lời được. Nay mình trả lời như thế này thì họ cấm sao được: “Một nòi dân cùng một giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong miếng đất mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nước mắt để vỡ vạt ra, thành ra một nước lưu truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì cho phép được hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống ở đó chết chôn đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được. Loài dân ấy không đến nỗi như dân Do Thái ở châu Âu, không đến nỗi như bọn hắc nô ở Mỹ châu đi tới đâu cũng bị chết chóc, thì cũng không khi nào chịu quên ơn miếng đất mà chúng nó thường gọi là “Tổ Quốc” của chúng nó bao giờ. Một loài như thế mà bảo chúng đừng thương “Tổ Quốc” thì bảo chúng thương ai?”. Nếu ta trả lời hẳn hoi như thế thì dầu gặp kẻ tàn bạo thế nào cũng không thể bỏ ta được. Thế thì sao ta không dám nói thương nước?

    Cái thương nước tôi nói đây không phải là xúi dân “tay không” nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác để phá hoại trong nước đâu! Tôi xin thưa: Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì bây giờ ta phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau. Hễ người ta làm việc gì bất công thì mình phải hiệp sức nhau lại mà chống, còn làm việc gì phải chăng thì mình cũng phải nhìn nhận, chớ có thấy chính quyền mình mất rồi mà đem lòng căm tức không kể đến việc hay của người ta. Thế thì lòng thương nước của dân Việt Nam có làm gì hại đến quyền lợi người Pháp không? Tôi xin thưa rằng: không! Dân Việt Nam thấy người nào làm hại cho nước nó thì nó ghét, ấy là lẽ tự nhiên.

    Theo ý tôi tưởng, chẳng qua dân Việt Nam mình hèn hạ nên người ta mới đè nén, nếu dân Việt Nam biết thương nước Việt Nam nhờ thì người ta tất cũng phải kiếm đường xúi giục cho người mình càng biết thương nước hơn, vì có biết thương nước mới biết chọn nước nào làm lợi, nước nào làm hại cho nó. Thương nước cho phải đường mới gọi là thương nước, nếu thương không phải đường thì đã không giúp gì cho ai mà lại còn làm hại sinh linh nữa. Nay ta nói thương nước, nhưng thương bằng lỗ miệng, nằm ỳ ra đó kêu người đến thì có khác gì đem đầu đi làm đầy tớ với anh khác. Tôi dám tưởng nếu người Pháp họ không cho ta thương nước, để ta nằm ỳ mãi ra đó thì đã không lợi gì mà lại khiến cho ta chán nản, không tội gì trung thành một cách vô ích với họ nữa, thế thì sự thương nước cũng có lợi cho người Pháp.

    Tôi nói đây thật chưa hết nhưng đã dài lắm rồi, vậy xin anh em cho phép tôi tóm lại đoạn đã nói ở trên.

    “Từ nay dân Việt Nam ta phải biết thương nước là tính tự nhiên trời đã phú cho, không thù nghịch gì với người Pháp. Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì sự ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau này mới thành tựu được. Tôi ở Pháp về mà nói như thế chắc anh em lấy làm lạ, vì nay người bên Âu châu đã đào sâu chôn chặt cái ái quốc chủ nghĩa rồi, nay tôi lại đem về tuyên bố trong dân gian hóa ra trái ngược với phong trào bên ấy lắm ru? Xin thưa rằng không phải.

    Chúng ta phải biết rằng: “Một loài dân trong một nước cũng như bọn học trò trong trường học, phải có thứ lớp, phải tuần tự mà tiến tới, phải qua lớp dưới mới lên lớp trên, không bao giờ nhảy lớp được, nghĩa là phải do gia đình luân lý tiến lên quốc gia luân lý, rồi do quốc gia mà tiến lên xã hội vậy”. Thế thì chúng ta cũng phải bước qua cái nền quốc gia luân lý trong đôi ba mươi năm đã, rồi mới có thể mong tiến lên xã hội luân lý được.

    Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lý thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lý được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.

    Tuy trong sách Nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ”. Hai chữ “thiên hạ” đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.

    Cái chủ nghĩa xã hội bên Âu châu rất thịnh hành như thế, thế mà người bên ta điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì. Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên Pháp mỗi khi người có quyền thế hoặc chính phủ lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận động kỳ cho đến được công bình mới nghe.

    Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy đè nén mình, cho nên phải hiệp nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học xét kỹ thấy xa như thế, còn nước mình thì sao? Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không liên quan đến mình.

    “Đã biết sống thì phải bênh vực nhau” ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến. Cho nên mới có câu: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên bộp”. Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng có góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi lơ láo, sợ sệt, ù lỳ như ngày nay.

    Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi bốn trăm năm trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bã vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị mình được giữ mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.

    Dầu trôi nổi, dầu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưỡng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, “một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi - ở nước ta là thế đấy!

    Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thông ngôn; có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.

    Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xuôi, dầu cố ruộng, dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cầu được lấy chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một năm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lý cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư ký ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được!

    Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế.

    Nay muốn một ngày kia nuớc Việt Nam được độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.

    Nói về đạo đức Âu châu và đạo đức Á Đông

    Mới xem ngoài mặt thì ta đều cho dân Âu châu là một dân tộc háo thắng, độc ác, dữ tợn; nhưng không, ta lầm đấy, ta ở lâu mới thấy họ có nền đạo đức cao hơn ta nhiều. Nền đạo đức của họ cao hơn ta là nhờ họ đã thâm những tư tưởng tự do truyền bá từ đời Hy Lạp, La Mã trở xuống. Họ cũg trải qua một hồi chuyên chế nhưng dân khí họ không như dân khí ta. Dân khí của họ rất phấn phát, nguời của họ rất anh hùng. Càng chuyên chế bao nhiêu càng nẩy ra những nhà hiền triết làm ra sách để truyền bá tư tưởng trọng dân bấy nhiêu. Dẫu hành hình khổ sở cũng không làm họ khiếp sợ, cho nên tên tuổi của họ mới sống tượng đồng bia đá đến ngày nay. Anh em đây ai đã đi qua Paris một lần tất cũng đã xem thấy những cái hình đồng mấy nhà triết học chống lại với đạo Gia Tô vậy.

    Nói đại khái thì về thế kỷ XVII như ông Jean Jacques Rousseau làm ra “Dân ước” (Contrat social), ông La Fontaine làm ra “Ngụ ngôn” (Fables), ông Montesquieu làm ra “Pháp ý” (L’Esprit des lois), ông Pascal, ông Voltaire v.v… đều là những tay kiếm hết cách mở cái chìa khóa chuyên chế để giúp đồng bào ra chỗ tự do. Tôi kể bấy nhiêu ông đó là chỉ tỏ rằng trong đời chuyên chế mà vẫn còn có người ra lo việc đời như thế, chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự do diễn thuyết thì người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao nhiêu.

    Đem so với Á Đông đời xưa duy có mấy ông trong đời Xuân Thu, Chiến Quốc bên nước Tàu như là ông Khổng, ông Mạnh, ông Mặc, ông Lão, ông Trang có thể ngang được với mấy ông kia, còn từ Tần trở về sau thì cả Á Đông cũng không có người như thế nữa, chớ đừng nói đến nước Việt Nam ta.

    Trong nước ta bây giờ có ông nào gọi là nhà đạo đức không? Nói xa hơn nữa thì trong triều nhà Lê có ông nào gọi là nhà đạo đức như mấy ông tôi đã kể không? Thế mà đời nào cũng có người được triều đình khen, được làm miễu thờ.

    Rút lại, những tôi tớ nhà vua đã tôn lên thì không ai dám đè xuống, mà những kẻ vua đã đè xuống thì không ai dám tôn lên. Làm như thế thì trách nào những nhà đạo đức nước ta không chóng mất sao được? Người có tư tưởng tự do chẳng những ai cũng cho làm lạ, mà như vua thấy thế cũng sợ hại đến quyền chuyên chế của mình nên lập mưu đập chết đi. Ở trong một dân tộc như thế thì những đứa nịnh hót không càng ngày càng nhiều sao được?

    Ông Montesquieu có nói: “Dân sống dưới quyền chuyên chế của nhà vua thì chẳng biết gì là đạo đức cả, chỉ lấy thế vị lớn nhỏ làm danh dự mà thôi; duy dân chủ mới thật còn có đạo đức”.

    Ấy, chúng ta muốn nước ta có nhà chân đạo đức thì nên nhân dịp này phá tan dây xích chuyên chế đã ràng buộc ta hơn nghìn năm nay và thu nhập tư tưởng tự do của Âu châu để làm một phương thuốc cho người nước ta vậy. Được như thế thì nhà đạo đức mới có thể xuất hiện trong đất nước này. Tôi không muốn thí dụ nhiều, tôi chỉ xin kể chuyện ông Trần Quý Cáp trong năm 1908 thì anh em sẽ biết chế động quân chủ ở nước ta có hại cho nhà có luân lý đạo đức là thế nào.

    Ông Trần là người rất thảo thuận, hộc hành rộng, tính nết tốt, làm giáo thọ ở Nha Trang, chỉ theo việc bổn phận mình là ông thầy, khuyên dân mở thêm trường học mà bị tên Phạm Ngọc Quát bố chính ở tỉnh ấy, nhân lọa bắt ông, trong 24 giờ thì chặt đầu. Cái thảm trạng ấy há không phải ở quyền chuyên chế mà ra sao?

    Đạo đức lớn ta không có đã đành, nay xin hỏi đạo đức nhỏ, tư đức của mỗi người, ta có hay không? Thưa rằng: Không! Một xứ đã bị chuyên chế thì tính chất gì thuộc về đạo đức cũng không thể nào sinh sản được.

    Tôi thường thấy người mình, kẻ nào khôn hơn chút đỉnh, giao thiệp với người kém hơn chút đỉnh thuần chỉ nói dối. Đứa “ăn cắp có giấy” làm minh bạch đã xong mà đứa ăn cắp chưa cấp bằng cũng đều một mực như thế cả. Tôi xem thấy lắm người danh dự không bằng ai, học thức không hơn ai, mhắm lại mình chưa khỏi hai chữ “đầy tớ người” mà khi ra đối với người đồng bào đồng chủng đã có ý kiêu căng, bảo ta là thầy đây! Ta là ông đây! Chớ không có tự nghĩ cho rằng: Thầy đây, ông đây đã làm được điều gì ích lợi cho bọn “dân Việt Nam” tay lấm chân bùn kia chưa? Tôi cũng đã từng thấy nhiều người viết báo than thở rằng đạo đức luân lý nước nhà trụy lạc, nhưng nói như nước chảy lá môn chẳng có hiệu quả gì. Vì sao vậy? Là vì các ông nói mà các ông ít chịu thực hành thì người ta không dám theo các ông cũng phải. Huống chi luân lý các ông giảng đó tự tệ tục của chính thể chuyên chế tạo thành ra, không chính đáng, không hợp thời thì người ta không thèm nghe cũng không thấy gì làm lạ vậy.

    Bây giờ ta đem đạo đức luân lý Âu châu về có gì chống với đạo Khổng Mạnh chăng?

    Từ nãy đến giờ tôi chỉ trích luân lý của ta, khen ngợi luân lý Âu Tây, chắc anh em nghe lạ tai, cho tôi là người bội đạo Khổng Mạnh chăng? Xin thưa rằng từ khi tôi hiểu chút ít đạo đức của Khổng Mạnh thì tôi rất sùng bái lắm. Vẫn biết đạo Khổng Mạnh hay thật nhưng bây giờ ta biết kiếm nơi đâu? Qua Tàu đem về chăng? Kiếm trong các sach sử Việt Nam này chăng? Tưởng thắp đuốc tìm cũng không thấy nữa, là vì nước Nam, nước Tàu bỏ mất đạo ấy đã lâu rồi.

    Đạo Khổng Mạnh không phải là cách chuyên chế của các nhà vua mà anh em đã mộng tưởng đâu. Đạo Khổng Mạnh dạy “quân dân tịnh trọng” (vua dân đều trọng) và rất bình đẳng; vua và dân đều cần đạo đức luân lý, nghĩa là dân phải kính trọng vua như cha mẹ mà vua cũng suy lòng đó mà yêu dấu dân như con đỏ vậy.

    Trong sách Đại Học thầy Tăng Sâm dẫn lời đức Khổng rằng: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai sĩ tu thân vi bổn”: Từ vua cho đến dân đều phải lấy việc sửa mình làm gốc. Sửa mình là việc lớn mà đức Khổng Tử buộc dân và vua đều phải như thế, chẳng là bình đẳng lắm ru? Cái chính thể ấy bên Âu châu thực hành đã lâu rồi, nghĩa là cái chính thể quân dân cộng trị mà Tàu dịch ra là quân chủ lập hiến vậy.

    Hiện nay có nước Anh, nước Bỉ và nước Nhật đang theo chính thể ấy. Dân trí hai nước trên đã tiến tới nhiều, cho nên quyền vua cũng đã tiến giảm bớt nhưng dân cũng thương vua mà vua vẫn yêu dân. Nước Nhật thì có kém thua nhưng đã theo chính thể lập hiến thì trước sau rồi cũng tới nơi vậy.

    Đến đời ông Mạnh, các vua chư hầu chuyên chế thái quá thì ông lại xướng lên cái chủ nghĩa dân chủ. Như ông nói rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Nghĩa là dân quý hơn hết, đất cát thứ nhì, vua là khinh. Ngày nay bên Đức, bên Pháp, bên Nga tuy chính thể của họ có khác nhau chút đỉnh nhưng cũng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả. Thế thì cái văn minh Âu châu bây giờ có trái gì với đạo Khổng Mạnh đâu. Đức Khổng đã nói rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua, song nếu vua không thương dân, dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không dạy đến. Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân quý mà vua khinh, nhưng ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua quý mà dân khinh thì dân phải làm sao? Ông cũng không hề nói đến. Vậy cho nên từ khi Khổng Mạnh đã qua rồi thì dân Tàu cũng thế mà dân ta cũng thế, hễ họ vua nào hơn thì lấy được nước, họ vua nào thua thì mất nước; vua công bình thì dân theo, vua tàn bạo thì dân giết, thành ra đời nào bền lắm thì là mấy chục năm, thay đổi tranh giành gây ra lắm cuộc trị loạn làm cho giết hại lẫn nhau; cha giết con, con giết cha, anh giết em, em giết anh, vua giết tôi, tôi giết vua không còn gì là đạo lý luân thường nữa.

    Đạo Khổng Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo đức luân lý vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Âu châu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc rất thần diệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về. Đạo Khổng Mạnh là đạo trung dung thường dùng như cơm nước thường ngày; như kính trọng cha mẹ; như thương người đồng loại, chớ không phải mê tín như các đạo khác. Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.

    Tôi nhắc lại một lần nữa rằng: “Đem văn minh đây là cái chân văn minh Âu Tây hòa hợp với chân Nho giáo ở Á Đông”, chớ không phải là tự do độc lập ở đầu lưỡi ở mấy anh Tây học lem nhem mà cũng không phải là quốc hồn quốc túy ngoài môi của các nhà Hán học dở mùa đâu.

    Cứ theo lời tôi đã nói thì anh em đồng bào cũng hiểu rằng: vì học đạo Khổng Mạnh một cách lầm lạc như thế cho nên hơn nghìn năm nay hết thảy những nước theo đạo tà nho đều yếu hèn và phải mất một cách nhục nhã. Như nước Cao Ly, hễ Mãn Châu tới thì theo mãn Châu, Mông Cổ tới thì theo Mông Cổ, đến khi Nhật Bản tới thì Nhật Bản lấy. Như nước Tàu thì nhà Tống mất bởi nhà Nguyên (Mông Cổ), nhà Minh mất bởi nhà Thanh (Mãn Châu). Chao ôi! Nước Tàu bị Mãn Thanh, Mông Cổ lấy nước, Cao Ly bị Nhật Bản lấy không phải là tội nơi những kẻ tà nho hủ bại của nước Tàu, nước Cao Ly đấy ư?

    Một nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông vua thì chẳng là ngu xuẩn lắm ư? Gặp được ông vua thông minh còn e lo chưa hết bổn phận thay, huống là gắp phải anh vua u mê làm ròng những sự độc ác, cấm dân có ăn học không được lo việc nước, thì dân khốn khổ biết bao, và còn ai dám ra mà gánh vác. Một nhà không ai lo chủ trương, một nước không ai lo chủ trương, thì nhà nước ấy làm sao không tan không mất được.

    Nước Tàu mà mất ấy, nước Cao Ly mà mất ấy cũng là lẽ tự nhiên, Nói đến nước ta lại càng đau đớn lắm nữa. Vua Lê Thánh Tông đem luật nhà Minh về chưa đầy 50 năm thì bị nhà Mạc đánh đổ. Nhà Trịnh lên khôi phục cũng chỉ có tiếng khôi phục đấy thôi, vua Lê cũng bị giết lên giết xuống, còn quân thần gì đâu, còn luân lý gì đâu! Đến vua Gia Long nhà Nguyễn thỉnh luật Càn Long về lại càng chuyên chế hơn nữa. Chưa đầy 80 năm đã bị mất nước một cách hèn hạ.

    Mất nước một cách hèn hạ nhục nhã như thế há không phải tại vua tôi nhà Lê nhà Nguyễn đấy ư?

    Mới đây Cao Ly đã thâu nạp được văn minh Âu Mỹ nên năm 1919 mới có cuộc độc lập vận động. Nước Tàu cũng thế, xướng ra việc bài ngoại vận động làm cho Anh Pháp đều phải nể mặt không dám hung hăng như ngày xưa. Xem như thế thì đủ biết rằng cái tư tưởng quốc gia đã nảy ra trong đầu người Tàu, người Cao Ly rồi vậy.

    Người nước ta thì sao? Người nước ta vẫn còn say sưa trong giấc ngủ nghìn năm, chưa có chút gì gọi là giật mình mở mắt cả. Bọn già thì lo làm quan để kiếm tiền nuôi vợ con, bọn trẻ thì lo làm thầy đặng kiếm gạo nuôi miệng, ngoài cái lo xác thịt ra thì không có một tư tưởng gì khác.

    Lại thêm một bọn ra vênh mặt múa may tự xưng là ái quốc ái chủng, nhưng hỏi đến họ cách khuếch lợi, trừ hại, tự cường, tự lập thì họ ập ạ như người mơ ngủ, chỉ ngồi ngong ngóng mơ nước ngoài tràn vào mà thôi.

    Dân tộc Nhật Bản được giàu mạnh như ngày nay là chỉ theo cái văn minh hình thức của Âu châu hay có sửa đổi gì luân lý không?

    Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn với Nhật Bản; thấy họ tiến thì nức nở khen chớ không khi nào chịu xét vì sao mà họ được tiến tới như thế? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay là họ còn trao dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Ai có đọc đến lịch sử Nhật Bản mới biết họ cũng bồi đắp nền đạo đức của họ lắm. Từ lúc Minh Trị duy tân cho đến 24 năm sau hạ chiếu lập hiến trong nước Nhật biết bao nhiêu người lo khuynh Mạc Phủ lo lập hiến pháp, biết bao nhiêu kẻ đổ máu rát cổ mới gây dựng nên một nước tân tiến rất giàu rất mạnh như bây giờ. Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật Bản về! Không biết họ qua bển làm gì!? Người ta có câu: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng”. Sao những kẻ sang Nhật sao không đem cái tốt về cho dân Việt Nam nhờ, mà chỉ làm giàu thêm cái tính nô lệ như thế? Rất đỗi những việc hèn hạ một người dân tầm thường không làm, mà những kẻ ấy cũng làm được hết thảy! Hay là đạo đức luân lý đã chết trong lương tâm của người mình rồi, cho nên không hấp thu được đạo đức luân lý của người chăng? Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi, cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng? Lấy lịch sử mà nói thì dân Việt Nam không phải là một dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm mà vẫn còn mê mê muội muội, bít mắt vinh tay không chị xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người?

    Có người nói rằng tại Pháp họ đè nén mình không cho mình học làm súng ống, làm máy bay, tàu ngầm, nên dân mình mới ngô nghê như thế! Những người nói câu ấy là những người không học lịch sử Pháp hoặc có tính yêu mình thái quá, nên chỉ biết trách người mà không biết tự trách mình. Sao không nhớ khi Pháp sang, sợ mình theo Tàu, cho người mình sang Pháp học mà mình vẫn khư khư không chịu sang bên đấy ư? Người Pháp cho mình 2.000 khẩu súng, 5 chiến thuyền mà mình không dám thuê lấy một người Pháp trông nom, để lính mình làm xằng bậy mà hư hỏng hết đấy ư? Tôi nói thế không phải là khen người Pháp có lòng tốt, nhưng chỉ lối ngoại giao của người ta không khéo là thế, mà mình dở dang là thế, cho anh em đồng bào biết đấy thôi. Phải chi lúc đó ta biết nhân dịp sang nước người học tập lấy vài khéo của người ta, thì bây giờ so sánh tuy không kịp nước Nhật nhưng so với Phi Luật Tân, với Xiêm La cũng không đến nỗi xa lắc như thế này.

    Ngày xưa nhắm mắt lại, một là văn minh Tàu, hai là văn minh Tàu, bị độc khoa cử làm mờ ám trí không đã đành, đến ngày nay đã hé mắt ra thấy người Tàu vận động nhiều việc rất to tát như gửi du học sinh khắp hoàn cầu, như bỏ quân chủ, lập dân chủ, mà cũng an nhiên bất động, nhất thiết chẳng biết gì là gì. Chẳng những thế mà thôi, lại còn mấy anh sang Tàu về nói láo, nói linh, chê người nọ, hạch người kia mà tự mình xem ra cũng không có bản lĩnh gì cho người ta đủ kính đủ phục. Có anh bạo gan chê cả Tôn Văn là người đại biểu văn minh cho nước Tàu đời nay, mà không biết rằng anh ta đem cái sự nghiệp của anh ta, cái tài năng của anh ta mà so sánh có bằng mảy may của Tôn Văn không? Những tính chất của người Tàu các anh không hề học đến, mà các anh khéo đem về một cái láu lĩnh và một cái bao tử trống mà thôi. Thế mà biết hồn luân lý đạp đức của người mình bị độc khoa cử giết chết, chỉ còn để nguyên lại một cái tính nô lệ thôi. Đạo đức mất trước mất sau thật cũng không phải là lời nói ngoa vậy.

    Có một vài người anh hùng không chịu đi xem xét, mê tín lịch sử đời xưa, trọng chủ nghĩ trung quân chủ nghĩa phục thù, tìm mưu kiếm kế phỉnh phờ cho dân dậy lên, nhưng than ôi! Một con dao, một đoạn tre thì có làm gì. Cái nỗi thảm hại, đưa đầu ra cho người bắn, đem thịt ra cho người bằm nghĩ cũng đáng thuơng, nhưng công việc làm nào có ích gì! Chẳng qua làm cho dân đức của ta trụy lạc, khiến những bọn nô lệ kia, bọn vô sỉ kia lấy đó mà dọa nạt, mà hà hiếp dân lành thôi.

    Luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn có được không?

    Có người hỏi luân lý của ta mất thì ta đem luân lý Âu châu về dùng hẳn có được không? Tôi xin trả lời rằng: không. Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu?

    Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia a mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng không tài nào sinh tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức lực bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cố mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy.

    Luân lý của Âu châu có tốt trọn không? Ta muốn theo thì phải làm thế nào?

    Nói rằng luân lý Âu châu tốt hơn thì tốt nhiều. Nói rằng luân lý Âu châu trọn tốt thì không dám nói rằng trọn được. Là vì: Dân tộc nào cũng thế, cắt nghĩa theo luân lý đạo đức thì dễ, nhưng làm theo luân lý đạo đức thì khó, không sao trọn vẹn được. Bên Âu châu họ cũng có nhiều cái dở, như nam nữ tự do thái quá, ly ly, hợp hợp, rất thường, thành ra đường sinh sản kém lần mà dân số không thêm; như giàu nghèo cách biệt thái quá, người ngồi không, kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động, người tư bản xung đột nhau mà trong nước không yên. Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang họa chiến tranh mãi mãi. Trọng trí dục hơn đức dục, chuộng ngoại giao hơn thành thật, cho nên thường sinh ra xâu xé nhau mà mất sự thái bình. Ấy là kể sơ lược, chớ kể hết tưởng cũng còn nhiều lắm. Bệnh họ tuy nhiều nhưng họ đã có thầy có thuốc chữa ngay, nghĩa là có những nhà triết học, những nhà giáo dục lo ra trừ tệ, canh cải sửa sang cho nền đạo đức luân lý mỗi ngày mỗi cao lớn, tốt đẹp thêm, chớ không phải như mước ta tốt khoe, xấu che làm cho một ngày thêm một xấu. Vậy nay ta qua thâu cái luân lý Âu Tây để đem về truyền bá cho dân Việt Nam, thì ta phải nên chủ ý lắm, lừa lọc lắm mới được, những điều gì đáng đem về thì ta hãy đem.

    Thưa các anh chị em đồng bào!

    Tôi nói từ nãy đến giờ thật cũng nhiều rồi. Vậy xin anh em cho tôi nói tắt lại rằng: Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân ta hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ dày xéo cũng vì mất đạo đức luân lý, thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.
    Anh em ta hãy gắng sức mà làm đi.

    Thưa anh em,

    Tôi cũng biết rằng muốn khôi phục lại nền đạo đức của một nước mà trăm việc đều đổ nát như thế này, không phải là việc dễ. Nhưng nay ta bảo rằng khó, không khôi phục lại nền đạo đức cũ thì biết bao giờ mới mở mặt được với người. Tôi nói đạo đức cũ không phải nói con phải làm tôi mọi cho cha, vợ phải làm tôi mọi cho chồng, tôi phải làm tôi mọi cho vua đâu, mà chính là cái đạo đức trung dung của Khổng Mạnh, đem dùng vào đời nào, nước nào cũng được, không cổ, không kim, không đông, không tây, như tôi đã nói vậy. Đạo ấy ở trong câu: Sĩ khả sát, bất khả nhục (giết người học trò được, mà làm nhục thì không được), phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu (giàu sang không mê được lòng mình, nghèo hèn không đổi được chí mình, sức mạnh không buộc mình cúi đầu, được thế mới gọi là đại trượng phu) …

    Nếu ta giữ được một ít đạo đức của ta, thâu thái một ít đạo đức của Âu châu đem điều hòa lại, rồi khuếch trương luân lý ta ra cho có quốc gia luân lý, nghĩa là khiến dân Việt Nam ai ai cũng đều biết nghĩa vụ đối với nước Việt Nam. Được như thế thì chẳng những được nước Việt Nam sau này được giàu mạnh, mà còn trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến ăn chung ở đậu trên miếng đất này cũng không dám đem lòng khinh dễ ta như ngày nay nữa./.
    Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở

  3. #3
    Tham gia ngày
    Oct 2007
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    354
    Thanks
    0
    Thanked 5 Times in 5 Posts

    Default

    Thư bảy điểm của nhà cách mạng Phan Châu Trinh gởi vua Khải Định

    KHẢI ĐỊNH HOÀNG ĐẾ THƯ
    Thư thất điều gởi vua Khải Định


    (bản dịch)

    Việt Nam quốc dân Phan Châu Trinh gởi thư cho đương kim hoàng đế

    Tôi sinh gặp lúc: trong thời nước nhà nghiêng ngập, ngoài thời các nước đua tranh tiến bộ. Tôi là người yêu bình dân chủ nghĩa, ghét chuyên chế quân quyền, đau đớn vì quan lại tham lam, thường xót vì dân sinh khốn khổ, vậy nên tôi sẵn lòng liều cả sanh mạng tôi, ra gánh vác việc đời, trông mong có cứu lại cuộc hiểm nghèo được chút nào chăng!

    Năm 1907, tôi đã gởi thư cho các quan chánh phủ Bảo hộ, hết sức kêu ca, trước bày tỏ tình cảnh khổ sở của dân Việt Nam, sau xin thay đổi theo chính trị các nước văn minh trong thời bây giờ. Những việc tôi đã đề xướng trong lúc ấy đều là sự cần kíp cấp thiết cả: như lập trường dạy tiếng Tây và chữ Quốc ngữ, bày ra hội thương, hội nông để giành lại quyền lợi cho người mình, và thay đổi cách ăn mặc theo cách Âu Tây, v.v…Những việc đó tôi làm trước mắt người thiên hạ, rõ ràng như ban ngày, vậy thời có tội lỗi gì không? Thế mà triều đình nước ta, trừ trên đến dưới, cứ khư khư giữ lấy thói chuyên chế cũ để hà hiếp dân ngu, cướp lấy lợi riêng cho mình; ghét việc thay đổi như cừu thù, coi nhân dân như rơm rác, tìm cớ bới việc, phá phách đủ đường, làm cho lòng dân ai ai củng tức giận, để mà giết hại những kẻ thông minh lương thiện trong nước. Sự chống sưu thuế không công bình, xảy ra khắp cả 12 tỉnh Trung Kì trong năm 1908, thời dân và thân sĩ bị giết và bị tù, kể hơn mấy ngàn người, đau lòng thảm dạ biết bao nhiêu.
    Gặp dịp như thế, một người như tôi, có thể nào mà họ chịu bỏ lỏng: phao cho việc này, buộc vào cớ kia, trước thời xử án tử hình, sau lại đày Côn Lôn.

    Khốn nạn thay! Nước ta bị nước Pháp bảo hộ đến ngày đó đã gần ba bốn mươi năm rồi, nhưng sự hủ bại vẫn không thay đổi, cách văn minh chẳng hề bắt chước, mà cái nọc độc chuyên chế ức hiếp vẫn còn gớm ghiếc như thế. Vậy thời cái văn minh của nước bảo hộ không có ích gì cho nước bị bảo hộ, mà nước bị bảo hộ cũng không nhờ gì được sự khai hoá của nước bảo hộ, lạ quá! Sự đó trong đời nầy cũng ít thấy vậy.

    Nếu tôi không nhờ được cái lòng công bình của mấy người Tây thời tôi còn đâu đến ngày nay. Tôi mà còn sống đến nay, cũng là nhờ cái văn minhthực của người Tây vậy (nhờ có hội Ligue des Droits de I’homme).

    Năm 1910, được khỏi tù, năm 1911 tôi được qua Tây đểxem xét cái học thuật văn minh Âu Châu. Đã 12 năm, tôi ăn nằm trên cái đất dân chủ, hớp cái không khí tự do, nhờ vậy mà tôi hiểu được lẽ chánh đáng trong thế giới, phần nghĩa vụ của quốc dân, và cũng biết chắc được cái mục đích của nước nhà nên thay đổi như thế nào. Dân ta bây giờ phải đánh thức nhau dậy, phải đồng lòng hiệp sức mà chống cự với lũ vua dữ quan nhơ, phải phá nó cho tan, đạp nó cho đổ; lại phải lấp tận gnuồn, cắt tận rễ, làm cho tiệt hẳn sức ma quỉ chuyên chế, nó đã ám ảnh chúng ta mấy ngàn năm nay, nếu không làm như thế thời không bao giờ trông thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng nữa!

    Đó là cái chủ ý và cái mục đích của tôi vậy.

    Vậy mà nay tôi nghe Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, có làm điều gì ích lợi cho dân không? Không, chỉ nghe có những điều kiêu căng, dâm dục, trái luôn lý; nghịch phép tắc; quyền vua muon cho tôn sùng, thưởng phạt mất cà công chính; hút cái máu mủ của dân nghèo, trau cái xác thịt cho sung sướng, ngược văn minh của thế giới, ngăn đường tiến bộ của quốc dân; nết xấu tính hư, chứa chan đầy nhẩy, không sao mà nói cho xiết được.

    Theo luật hiến pháp các nước văn minh trong đời bây giờ, vua nào trái phép, dân có quyền cứ luật mà bắt tội. Tuy ngày nay dân quyền nước Nam còn bị đè nén, hiến pháp còn chưa thành lập, song cứ theo lẽ công bình chung trong đời nay, Bệ hạ không sao mà gỡ tôi với chúng tôi được.

    Nay tôi trích ra bảy việc quan hệ thứ nhất đến dân, đến nước chúng tôi, bảy việc đó là bảy tội của bệ hạ, tôi sẽ xét đoán bắt buộc như sau nầy, khi bệ hạ được thư này, thì Bệ Hạ phải tự xử lấy.

    I. Một là tội tôn quân quyền

    Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thường ra những Chiếu, Dụ ép dân phải tôn quân quyền, là lẽ gì vậy? Bệ hạ thường nói, nước ta xưa nay vẫn sùng Nho giáo. Nho giáo còn ai lớn hơn ông Khổng, ông Mạnh? Xưa vua Định Công hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có câu gì vua nói ra làm nước thạnh vượng được không?”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, làm vua khó lắm, mà làm tôi cũng không dễ”. Lại hỏi rằng: “Vậy thời có câu gì vua nói ra , mà làm mất nước không”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, ta không vui chi sự làm vui, ta chỉ vui sao cho những lời ta nói ra không ai dám cãi lại”. Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Trong nước dân là quý nhất, đất cát và vật sản là thứ nhì, còn vua là khinh”. Lại nói rằng: “Có ở cho được lòng người cùng dân, mới đáng làm ngôi thiên tử”. Còn biết bao nhiêu là lới nói khác nữa, cũng toàn một ý ấy cả. Bệ hạ xem lại trong 5 Kinh và 4 Truyện, xem có câu nào là tôn quân quyền không? Bởi vì người nào mà ngôi mình ở trên muôn người, thời lòng khiêm nhượng phải xem mình như ở dưới cả muôn người, ấy là cái tinh thần của Nho giáo vậy; nếu người nào hãnh hãnh tự đắc, cậy quyền thế mà ép dân, rằng: “chúng bay phải tôn ta, phải sợ ta, thời người ấy chẳng khác chi tìm đường tự tử vậy.

    Xưa vua Kiệt rằng: “Ta làm vua trong nước nầy, như mặt trời soi trên trái đất, mặt trời mất ta mới mất”. Dân thời trả lời rằng: “Mặt trời kia sao mầy không mất? Chúng ta sẵn lòng chết với mầy, làm cho mầy mất.”

    Vua Trụ rằng: “Mạng ta sinh ở trời, chứ chẳng ở dân”. Dân trả lời rằng: “Trời là dân, trời xem là dân ta xem, trời nghe là dân ta nghe.”

    Rút cuộc lại vua Kiệt thời đày ra nội Nam Sào, vua Trụ thời đầu treo cờ Thái Bạch.

    Ấy là những gương của các ông Vua tôn quân quyền đó. Về sự đó đức Khổng Tử rằng: “Vua Thang đày ông Kiệt, vua Võ giết ông Trụ là hợp theo lẽ trời, mà thuận theo lòng người”, Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Nghe giết một người tàn bạo, tên là Trụ chứ chẳng phải giết vua.”

    Đấy mới thực là Nho giáo đấy, sách vở còn sờ sờ đấy, đều ghi lại từ tay đức Khổng, thầy Mạnh cả, có phải tọi bày đặt ra tôi tự dối tôi, mà phỉnh người ta đâu.

    Những Chỉ, Dụ tôn quân quyền của Bệ hạ, có khác gì cái chiến thơ với Nho giáo hay không? Xưa nay có vua nào nghịch với quốc giáo mà còn được làm vua lâu dài đâu.

    Còn theo các học thuyết mà nói, sao gọi là nước? Là hiệp dân lại mà thành nước; sao gọi là triều đình? Là những người được ủy quyền cho, phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích nước.

    Ông vua hay ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước, cũng như một người quản lý thay mặt cho một Công ty mà thôi.

    Ai chịu trách nhiệm ấy, hay hưởng được cái quyền lợi, thời phải làm cho hết các bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu không thế thời cũng bị phạt, bị tội như mọi người vậy.

    Ấy, tự do, bình đẳng, là nghĩa như thế mà các nước văn minh thì nay phải đặt ra quan Nội các Tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân là thế.

    Nếu có ông vua, hay ông Giám quốc nào chiếm của dân làm riêng của mình, thời dân buộc tội cũng chẳng khác gì tội ăn trộm ăn cướp; nếu cậy quyền mạnh hành hạ dân làm tôi mọi, thời buộc tôi cũng như đứa bạn nghịch.

    Cái lẽ ấy đương thời nó sáng rỡ như ban ngày, ai ai cũng rõ. Phàm những dân các nước văn minh, đều coi lẽ ấy như nước, lửa, lúa, gạo, thờ lẽ ấy như trời đất thần linh; dân nào thuận lẽ ấy thời được thạnh vượng phú cường, dân nào trái lẽ ấy thời phải sa sút hèn hạ.

    Xưa vua nước Pháp là Louis XIV nói rằng: “Nước là ta”. Dân Pháp cho là lời nói đại nghịch vô đạo; đến nay người Pháp làm sách chép đến câu đó cũng còn chưa nguôi lòng giận. Cái ý đó có khác gì với nghĩa Nho giáo đâu.

    Đức Khổng Tử nói rằng: “Ông vua nào muốn cái sự ghét của dân, thời tai hại tất có ngày đến mình”. Lại nói rằng: “Mọi rợ nó có vua, chẳng bằng những nước văn minh nó không có là hơn”. Ông Mạnh Tử nói: “Nước là nước của dân, chứ không phải của vua”.

    Nay Bệ hạ sinh đẻ trong nước Nho giáo, và làm vua trong thì bây giờ là thế kỉ 20, mà nước ta lại đứng dưới quyền nước dân chủ Pháp Bảo hộ, Bệ hạ lại dám tôn mình như thần thánh, nghênh ngang trên đầu dân. Vậy thời chẳng những dân Việt Nam không thể dung được Bệ hạ, mà dân nước Pháp lại càng khi dễ Bệ hạ nữa.

    Nay chúng ta thử ghé mắt xem qua tình thế Âu Á, Nhật Bản là nước đồng văn, đồng giống với nước ta. 40 năm trước họ đã lập ra hiến pháp, cho dân được bầu cử nghị viện; việc chính trị trong nước theo công ý của dân, chứ vua không được tự chuyên cả; vì thế nên nước họ được cường thịnh, nay đã đứng đầu trong Á Đông, thế mà họ vẫn hiềm quyền vua còn lớn quá. Vua Minh Trị là vua có danh tiếng công đức của Nhật Bản, mà cuối năm hiệu Minh Trị, ông ta còn bị cái hiềm thích khách, lại năm mới rồi đây, quan Tể tướng Nhật Bản bị giết trong ga xe lửa cũng vì cớ ấy.

    Nước Tàu là nước mẹ văn minh nước ta, trong năm 1911 họ cũng đã đuổi vua đi để lập nên nước dân chủ.

    Còn như Âu Châu, quyền vua còn ai lớn hơn Hoàng đế nước Nga, thứ nữa thời Hoàng đế nước Đức, và Hoàng đế nước Anh (trong nguyen bản là Úc, có lẽ nhầm)? Trong chiến bại vừa rồi, vua Nga la Nicolas II và cả nhà bị giết một cách rất thảm hại; vua Đức Guillaume II phải trốn qua Hà Lan mới khỏi chết; vua Anh Charles I, hai lần trốn về để mưu phục ngôi vua, dân nước Anh họ chống cự lại và đuổi đi như đuổi gà; rút cục lại bị đày chết ngoài một hòn cù lao.

    Những ông vua tôi đã kể trên đó, đều là những người anh kiệt, và trí họ cũng biết đủ mọi việc trên thế giới, tuy họ đối với dân có một hai chuyện tự chuyên, song cũng có lắm việc họ làm ích cho nước họ. Những ông vua nào làm nên, thời nước được giàu mạnh, ông nào có bị thua đi nữa, cũng không đến nổi mất nước. Thế mà các nước ấy nó đối với các vua chúng nó một cách rất nghiêm khắc, ghét họ như là cục thịt dư bướu thịt, gớm họ như con rắn dữ rết độc; việc nhỏ không cẩn thận, thời chúng nó bẻ bắt không thứ; làm việc lớn mà hỏng, thời sự chết chóc theo ngay. Xem đó thời đủ biết cái trí thức những dân đời bây giờ mở mang là thế nào!

    Còn nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm việc chính trị vào một tay vua; công việc Triều đình cấm không do dân nói đến (luật ta cấm không cho học trò và dân gửi thư cho vua nói chính trị). Đã 70, 80 năm nay, trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp luật thời nghiêm nhặt, dân mất cả tự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, vì luật đó là luật người Mãn Châu lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công bình; xem như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông Nguyễn Văn Thành là một người khai quốc công thần, chỉ vì cớ con ông ta đặt một bài thơ chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy! Thế thời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!). Từ đó nước ta, dân với vua cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giả nổi lên luôn; đến đời Tự Đức, Tây qua là mất nước, ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ chưa đầy 50 năm, đã bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học hành thời hủ bại, nên học trò dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn cướp của dân, chẳng biết nước nhà là gì.

    Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt, chẳng còn đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biết nước ta trôi nổi vào tay ai!

    Cứ sự đã qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệng lưỡi giỏi thế nào, cũng không cãi cọ gì được.

    Vậy nước ta từ nay về sau, còn nên tôn quân quyền nữa không? Không, chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy mà vua đến nay cũng còn, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém cả người thiên hạ, đã đành nên thương hại, mà cái lòng trung hậu nhịn nhục của nó cũng nên chuộng vậy!

    Vậy thời đáng lẽ vua phải hết lòng lo lắng làm việc gì lợi ích cho thỏa lòng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm vua, chẳng nghe có một điều gì là hay, mà sự xấu xa thời đã chán chường trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà thôi. Vậy mà nay còn dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân còn phải tôn mình nữa kia!

    Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng, mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ không thể tránh được.

    II. Hai là tội thưởng phạt không công bình

    Thưởng phat là cái phép lớn của Triều đình. Mạng sống của dân, kỉ cương của nước, đều quan hệ ở đó cả. Đức Khỗng Tử nói: “Hình phạt không nhằm phép, thời dân không có chỗ thò tay chân”. Mạnh Tử nói rằng: “Người trên không theo lẽ thẳng, người dưới không giữ phép luật, cái nước như thế, thời thế nào cũng phải mất”. Đời xưa thưởng người phải ở Triều, là tỏ ra người cả nước cùng thưởng, phạt người phải ở chợ, là tỏ ra người cả nước cùng phạt; nếu hai sự đó mà mất cả công bình, thời dân cần gì phải có vua có quan?

    Tôi nghe đích rằng: Bọn tên X là bạn chơi bời lẳng lơ với Bệ hạ khi trước, khi bệ hạ làm vua rồi, thằng thời được thăng chức Thống chế để hầu hạ bên mình, thằng thời làm cho Tri phủ, Tri huyện, quan Tỉnh hay quan Kinh v.v…Lại nghe có anh quan Thị lang nọ, vợ anh ta có oán riêng với Bệ hạ lúc còn chưa là vua, khi Bệ hạ lên ngôi rồi, nhơn sự rủi ro nho nhỏ, anh ta bị cách chức đuổi về ngay. Lại một Thượng thơ hay rao bán những cái tịt riêng của Bệ hạ ra ngoài, nhân dịp đó mất chỗ dựa, Bệ hạ tìm cớ buộc tội nặng, xử 8 năm tù, án đã làm rồi, sau nghe anh này rút ra 5 vạn đồng bạc, lại được lại, giáng chưa đuổi về.

    Vậy thời sự thưởng phạt, Bệ hạ cứ theo ý riêng của mình,chẳng cần gì phép nước, làm cho thêm sự gian dối lo lót ra. Vua như thế, thời vua làm gì?

    Lại nghe Bệ hạ nuôi một tụi lính kín hơn 40 người, để mai chiều đi do thám chốn hương thôn, nơi thành thị, xem có ai gièm chê mình không? Nếu có, thời Bệ hạ hoặc là tìm cách buộc tội ngay, hoặc là dùng cách bí mật làm hại mà không cho người ta biết. Những quân đó rặt là quân côn đồ, cậy thế gần vua, làm điều phi pháp, khiến cho lương dân ai ai cũng sợ hãi, khóa mồm bịt miệng, ra đường gặp nhau chỉ lấy mắt trông nhau mà thôi, thiệt là làm cho nhân dân khổ sở thảm thê.

    Xưa vua Lệ nhà Châu là người lắm nét xấu, sợ dân chỉ trích, mới đặt ra một cái phép để khỏi sự chê gièm, cũng làm như Bệ hạ vậy. Ông Thiệu Công can rằng: “Bịt miệng dân khó hơn là bịt miệng sông”, vua Lệ không nghe, sau quả bị dân giết. Sao Bệ hạ không lấy gương đó mà soi?

    III. Ba là chuộng sự quỳ lạy

    Cái quỳ lạy chẳng qua là để chỉ sự tôn kính đó mà thôi, ngoài ra chẳng có nghĩa lý gì cả. Một người ngồi đồ sộ ở trên, bao nhiêu người dưới phải áo mão dập đầu xuống đất, chẳng những là làm mất cái phẩm giá của loài người, mà lại làm cho người trên sinh lòng kiêu căng, người dưới mất lòng liêm sỉ, thật là một cái lễ phép rất là mọi rợ. (Lễ lạy đời xưa, một người lạy thời phải lạy trả lại, lễ đó hãy còn bên Nhật Bản, nhưng vì phiền quá, nay cũng bỏ).

    Các nước văn minh đời bây giờ đều bỏ cái lễ ấy cả, chỉ còn một hai xứ Mường, Mán còn giữ lại mà thôi, thế mà nước ta đến nay vẫn còn giữ thói đó, thực là một sự xấu hổ cho dân ta biết bao nhiêu.

    Năm 1906, quan Tòan quyền Beau ra lệnh bỏ lạy, khốn nạn thay cho các quan lớn Việt Nam không biết xấu hổ, cứ bắt dân giữ cái thói cũ. Đến lúc quan toàn quyền Sarraut lại cấm lại một lần nữa; nay Nam kỳ và Bắc kỳ đã bỏ cả rồi, mà Bệ hạ cũng cứ khư khư theo cái thói mọi rợ đó, chẳng những không bỏ, lại còn làm cho phô trương thêm ra, Bệ hạ làm hình như thèm cái lạy như thèm ăn uống một món gì ngon sướng lắm. Mỗi khi trong Triều có lễ chầu lạy thời Bệ hạ cho phép người nào chụp ảnh để bán cho khắp cả nước, những ảnh ấy đã truyền khắp cả thế giới.

    Khi Bệ hạ qua Tây, các quan tiễn đến ga xe lửa Đà Nẵng, Bệ hạ cũng bắt làm lễ lạy; đến khi tàu tới Marseille cũng thế.

    Lễ lạy không phải là lễ văn minh, vua cũng không phải là trời, quan và dân không phải là đày tớ mạt, ga xe lửa và bến tàu không phải chốn Triều đình, mà sao Bệ hạ dám bắt người ta vùi áo mão trong chốn lầm than, xem loài người như loài trâu ngựa, làm cho người ngoại quốc trông vào, chẳng những là chê cười Bệ hạ, mà lại mỉa mai khinh dễ nòi giống Việt Nam nữa. Những sự đó, phàm những người có nhiều ít trí khôn, biết được một tí văn minh thời bây giờ, chẳng ai chịu làm, mà Bệ hạ thời cứ vui vẻ tự đắc mà làm được, thực lạ quá! Vậy không phải một người ngu là gì?

    Rất đổi Bệ hạ lạ cho phép người ta dùng thạch cao nắn thành hình người, như lúc Bệ hạ chịu chầu lạy trong lễ đại triều, để trong trường đấu xảo Marseille, Bệ hạ tưởng sự đó là quan trọng lắm hay sao, mà Bệ hạ dám đem ra khoe trước mắt thế gian? Tưởng làm thế nầy: Bệ hạ thời choảnh trên ngai thếp vàng chẳng chút khiêm nhượng nào cả, còn các quan lớn nhỏ râu tóc bạc phơ, cúi đầu khoanh tay mắt thời nhắm hi hí, khòm lưng đứng cả trước Bệ hạ, làm như hình một bầy rái cá đương tế cá, một bầy khỉ đương làm trò. Những người Âu có kiến thức, ai nấy cũng tức cười, vậy có chán ngán không?

    Vậy thời Bệ hạ chẳng biết gì là xấu hổ sao? Bệ hạ chẳng quản gì danh tiếng của Bệ hạ mặc lòng, còn thể diện nước Nam thời sao?

    Trong Kinh truyện rằng: “Những ông vua mà tính ý trái với thiên hạ cả, thế nào cũng bị người làm hại”. “Vua khinh dân như thể là con chó con ngựa, thời thế nào dân cũng coi vua như người đi đường”, (nghĩa là không tình nghĩa gì với vua). “Vua coi mạng dân như cái cỏ cái rác, thời dân cũng coi vua lại như người cừu thù”.

    Vậy thời Bệ hạ chẳng qua là người qua đường, hay là người thù địch của dân Việt Nam đó mà thôi, muốn cho dân đừng làm hại đến mình sao được?

    IV. Bốn là tội xa xỉ vô đạo

    Sau khi Bệ hạ làm vua rồi, thời đã đem lòng chán chê những cung điện cũ ông bà đời trước để lại, liền làm ngay một sở cung điện nguy nga ở làng An Cựu(1), mua những đồ sứ của Tàu, mỗi lần vài ngàn bạc, đem về đập bể ra, lựa những miếng nào bông hoa đẹp, để gắn những hình con long, lân, qui, phụng, cho thỏa lòng xa xỉ của Bệ hạ. Lại đem bạc tiền thuê người Tây đúc ba, bốn cái tượng đồng của mình, phí tổn ước mỗi cái trên dưới nột vạn đồng bạc, để chưng trong nhà đấu xảo. Báu gì, xảo gì đồ đó mà đấu! Lại từ cái khăn, cái mũ, cho chí cái áo, cái giày, Bệ hạ đều đính vàng ngọc kim cương, giá phí biết là bao nhiêu! Rất đổi lấy vàng luột giát ra làm cái ủng để bao khắp chân, xa phí dại dột, từ xưa đến nay chưa có nghe ông vua nào làm như thế bao giờ.

    Lại Bệ hạ lúc qua Tây, xuống tàu từ Tourane cho đến khi qua đến Tây, lúc ở trên tàu, gặp khách bộ hành nào thời những rượu sâm banh hạng nhất là đãi cho thả cửa, chỉ nói những tiền cho “buộc boa” (pourboire) cũng đến 20.000 quan, còn kim tiền kim, khánh thời đụng cho ai nấy, chẳng kể sao hết được.

    Ai còn lạ gì, khi Bệ hạ chưa làm vua, trong túi chẳng có một xu, vậy thời tiền đó ở đâu mà tới? Chẳng phải Bệ hạ ăn cắp tiền kho, tiền kín của nước ta, thời tiền đâu?

    (Trở lên là sao y bản dịch thủ bút của Cụ Tây Hồ còn giữ được. Dưới đây là ông Lê Ấm dịch tiếp ở bản thủ bút Hán văn)

    Than ôi! Ở Trung kỳ nước ta, nông dân thời nghèo khổ đến cực điểm, thiên tai tới tấp, oan vong thường thấy, quan tham lại nhiễu, đất xấu dân cùng, lại thêm trong lúc giặc giã, vật giá cao vọt, tình trạng lưu ly đến nay chưa cứu vớt, xâu thuế nặng nề, gánh vác không nổi; nói đến việc mở mang trí khôn, việc nâng đỡ đời sống thời còn xa lắc xa lơ, sánh với Nam, Bắc kỳ, bên khô bên tươi cũng đã rõ rệt rồi. Thế mà ngân sách còn kêu thiếu hụt, ép dân mua rượu, thuốc phiện để làm giàu công quỹ, trắng trợn như thế còn phải làm, còn nói chi nữa.

    Chẳng nói đâu xa, những năm 1916, 1917, 1918 là sau khi Bệ hạ đã lên ngôi rồi, dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão to lụt lớn hạn lâu, nên phải chết đói, chết dịch, trên báo chương kêu vang luôn, thảm thương như thế còn gì hơn nữa! Nhưng mà chưa từng nghe Bệ hạ làm được một việc từ thiện nào để cứu người sống sót, bố thí một đồng xu nào để giúp kẻ khốn cùng! Như vậy thời Bệ hạ đã dứt hết tình nghĩa với quốc dân ta từ lâu rồi, mà nay lại dám ăn cắp của nước làm của riêng, xa xỉ bậy bả, vứt tiền vào chỗ trống không. Chỉ lấy một việc ấy mà nói, Bệ hạ còn mặt mũi nào, còn tư cách nào mà tự xưng là vua của dân ta?

    Giả sử như Bệ hạ lấy tiền làm cung điện đó mà lập một trường Đại học tại Huế, lấy tiền mua mua đồ sứ để đập bể đó mà mua đồ dùng cho nhà trường, lại lấy tiền phung phí dưới nuôi học sinh lưu học tại Pháp cũng được vài mươi người, thời hai cách dùng tiền lợi hại khác nhau biết là bao nhiêu!

    Tương hại thay! Quốs dân ta mỗi năm cần cù, đổ mồ hôi sa nước mắt, vợ kêu đói con khóc lạnh, cũng mặc, thân rách lưới, bụng xép ve, cũng mặc, chỉ lo chạy ngược chạy xuôi cho có tiền để nạp thuế cho nhà nước, mà cũng có lòng mong nhà nước làm được điều gì ích lợi chăng? Nhưng mà khi thu thì vơ vét tận xương tủy, đến khi tiêu thì vãi tung như tro bụi như thế thời quốc dân ta tội gì mà phải chịu cực khổ, dâng của cải, máu mủ để cho một người vua u mê tiêu phá một cách dại dột như thế?

    Trong khi Bệ hạ vung vãi bậy bạ đó, Bệ hạ há không nghe việc làm của vị tổng thống Trung Hoa là ông Lê Nguyên Hồng sao? Ông ấy thấy kho nhà nước thiếu hụt, thời tự nguyện đem tiền lương của mình hơn 3 triệu rưỡi quan tiền Pháp, trả lại cho quốc dân để đem làm việc từ thiện, các báo Pháp khen ngợi không ngớt.

    Ôi! Tàu là một nước đất đai rộng, sản vật nhiều, dân số đông hơn hết trên thế giới, lại là một nước độc lập, họ đói nghèo, không phải là cùng vô sở xuất, thế mà đường đường một vị Tổng Thống một nước lớn, biết yêu nước, biết lo dân, còn không muốn lãnh số lương hằng năm được hưởng, để cho quốc dân bớt gánh nặng thay; huống chi nay Bệ hạ là vua một nước bị bảo hộ, vị thứ ở dưới quan Toàn quyền, danh hiệu chỉ có trong 12 tỉnh, công nghiệp không hơn gì một tên dân mạt, mà lại dám tự sánh mìnhnhư vua trời, việc làm như trộm cướp, ngoài lương bổng ra, còn thêm phí tổn làm cung thất, lại còn tiêu xài bậy bạ nữa, thế là nghĩa lý gì?

    Bệ hạ viết thư cho Bộ Trưởng Thuộc địa có câu xưng là “cha mẹ dân”, thử hỏi nước ta xưa nay vốn trọng luân lý gia đình, mà có đâu thứ cha mẹ tàn nhẫn bất lương như vậy? Đổi lại, phải nói là thằng giặc của dân thời đúng hơn. Đó là bốn tội.

    V. Năm là phục sức không đúng phép

    Bệ hạ tự chế ra một thứ lễ phục kiểu mới, tự mặc ra để ra Triều. Kiểu ấy là trên áo cẩm bào cũ, thêu vào cái cầu vai kiểu Âu, còn cổ áo và tay áo thời đính vài ngọc lòe loẹt, Âu không ra Âu, Á không ra Á, lại trên nón vua thời thêu thêm những hình rồng phụng sáng ngời. Nghe nói khi Đại tướng Jofre qua nước ta, Bệ hạ mặc đồ ấy mà đón tiếp; bây giờ qua Pháp, khi đến điếu mộ danh nhân tử sĩ, cũng mặc đồ ấy. Cũng may là người Pháp ít để ý đến lễ chế nước ta, nên không biết đó thôi, nếu có người hơi rõ, gạn hỏi rằng, Bệ hạ ăn mặc như vậy quả có đúng với lễ phục nhà binh nước Nam không? Thời chẳng biết trả lời thế nào được.

    Thử xem các nước trên thế giới, về lễ phục thời nước nào cũng có qui định, khi tiếp khách, khi duyệt binh, khi triều, khi hội, lễ phục có quan hệ đến quốc thể; phàm người ra làm việc công đều không được vượt khỏi, nếu không thận trọng một chút, thời đối ngoại mang nổi nhục thất lễ, đối nội mang cái tội trái phép. Ở nước ta trước kia phép nọ cũng rất chặt chẽ, từ vua đến dân đều có thể chế, chép lại ở hội điễn, ban bố làm lệnh chung, nếu ai sai vượt thời hình phạt theo ngay.

    Nếu nói rằng cách mặc xưa không hợp với đời nay, phải cải cách cho hợp thời, thời đó không phải việc không nên làm. Xem như Tàu với Nhật công phục đều theo lối Âu Châu thời sao? Nhưng phải đặt làm thể thức nhất định, trên dưới một loạt, thay đổi theo mới, lấy lệ công bố ra ai nấy đều phải theo, như vậy thời sao lại không nên?

    Nay Bệ hạ lại trái hẳn, tự chế tự mặc, chỉ lo làm sang một mình, người trong nước xem vào không gì là chính đính, lại làm cho tai mắt người ngoài lầm lạc, đã sai phép bang giao, lại làm nhục quốc thể, chiếu luật pháp nước nhà, phải chịu điễn hình. Đó là năm tội.

    VI. Sáu là du hạnh vô độ

    Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thời ra sức khuếch trương nghi trượng nhà vua, thường thường ra đi chơi rông, nào là voi, nào là kiệu, nào là xe nào là ngựa, những người theo hầu, nhiều khi đến hàng trăm, ít cũng ba bốn chục, chiều lại rong chơi thành thị. Trang sức lộng lẫy, nghi thức oai nghiêm, quân hầu nghênh ngang, nước ta bốn mươi năm chưa từng có. Người đi đường khổ việc chạy tránh, dân trong nhà chán sự hầu phiần, còn Bệ hạ thời dương dương tự đắc, ý muốn tỏ cho người ta biết rằng Hoàng đế là sang.

    Xét luật pháp các nước văn minh, không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ kèm theo. Nay Bệ hạ tự tôn quân quyền, tự ý làm oai làm phúc, chính trị bỏ lỡ không mảy may lưu tâm đến. Nhân dân đói lạnh chẳng chút hỏi han, mà lại ngày ngày chơi rông, kiêu căng buông lung, thời còn trách kẻ bầy tôi sao được? Bệ hạ thì cao quý lắm đó, còn quốc dân đau khổ thì sao?

    Như vậy là chỉ biết quyền lợi, mà không biềt có nghĩa vụ, chiếu theo luật, hễ không làm hết nghĩa vụ thời phải chịu trách nhiệm là cái tội hại nước hại dân, Bệ hạ phải chịu là thủ phạm trước hết. Đó là sáu tội.

    VII. Bảy là việc Pháp du ám muội

    Bệ hạ qua Pháp chuyến này, người ta kẻ nào có lưu tâm đến quốc sự, phần nhiều phải suy nghĩ, trước thời ngờ sau thời lo, khi đã biết rồi thời ngó nhau mà cười mĩm.

    Mượn cớ rằng đưa Hoàng tử đi học, hoặc đi điếu quân sĩ nước ta tử trận, và đi xem các thành phố phía Bắc nước Pháp bị tàn phá, thời những việc đó đều là việc tư của Bệ hạ, không phải việc công của quốc dân ta, lại đó là việc không cần kíp gì cả.

    Nếu mượn cớ rằng đi du lịch nước Pháp, để khảo sát văn minh của họ rồi để cải cách chính trị trong nước , thời Bệ hạ không phải là tay làm việc ấy được. Sao vậy? Vì nước Pháp là nước dân chủ, mà Bệ hạ là vua tôn quân quyền, lấy cán vuông mà đút vào lỗ tròn, chỉ có cái hại làm cho hư cán mà thôi. Vả chăng Bệ hạ không am hiểu tiếng Pháp, mà mấy ông đại thần đem theo, như tên X tên Y đều là bọn hạ tiện nước ta, trí thức họ còn thấp hơn con nít 10 tuổi của Pháp. Lại trong khi Bệ hạ ở Ba Lê, chỉ có một lần đến trường đua ngựa, cá được 200 quan, còn như những Viện Bác cổ lớn, học đường lớn, thương quán lớn, công xưởng lớn, và những nơi nhóm họp bao nhiêu văn minh tinh túy của nước Pháp v.v… thời chưa từng bước chân vào, nói rằng đi khảo sát, thời khảo sát mà như vậy ư?

    Nếu mượn cớ rằng đi dự cuộc đấu xảo Thuộc địa Marseille, thời nước ta là ngày nay có cái xảo để đấu, phi người Bắc kỳ thì thời Nam kỳ là dân ở dưới quyền trực trị của pháp vậy (đấu xảo này Trung kỳ có nghề bện sáo, so với 50 năm về trước chưa cải lương chút nào), còn 12 tỉnh Trung kỳ là cái xứ ở dưới quyền chuyên chế của Bệ hạ, thời sĩ phu lòng đen như mực, nông dân xướng gầy như củi, có gì là xảo đâu! Chỉ duy đại thần và quan lại của Bệ hạ, thời cái xảo quỳ lạy, cái xảo dua nịnh, cái xảo ăn hối lộ, cái xảo xẻo thịt dân để ăn cho béo cho mập, nhưng tiếc thay! Cái loài quỷ sứ ấy, thời tại Pháp đây, sáu bảy mươi năm về trước, họ đã nhận xuống nước sâu, ném vào lửa đỏ cả rồi, nay Bệ hạ đem loài ấy qua, thời không ai còn mà đấu nữa!

    Như vậy trong cái màn hắc ám của chuyến du lịch nầy của Bệ hạ, công sắp đặt quỷ quyệt thế nào, cũng không khó gì mà không biết vậy.

    Nghe Bệ hạ vài năm trước đây, đã cậy oai chuyên chế, vơ vét của dân, mua đồ xa xỉ hạng nhất của các nước Á Đông và nước mình, tóm thâu tất cả đồ quý báu của các triều trước để lại, chứa đựng có hơn trăm hòm, ngày nay đem cả theo, nhờ người Pháp tên X tên Y vận động, dâng lễ cho đảng quân chủ nước Pháp, để nhờ củng cố ngôi vua cho cha con Bệ hạ và nhờ họ làm hậu viện để mong đạt cái mộng tôn quân quyền, sau thành việc rồi Bệ hạ về nước sẽ thi oai dâm bạo, khóa hết miệng lưỡi quốc dân, rồi sẽ ký điều ước này điều ước nọ để đền đáp. Việc nầy tuy còn ở trong vòng bí mật, nhưng người ta đã đồn rầm ở ngoài, không phải là không có cớ, theo lời tục ngữ của Pháp “không có lửa mà có khói” ai tin!

    Tuy nhiên, nếu Bệ hạ mà dùng kế ấy, há chẳng thất sách lắm sao? Bệ hạ muốn giữ vững ngôi quân chủ, mà lại đi cầu khẩn với dân của một nước dân chủ, Trinh này muốn biết muôn phần không có một phần nào thành công được.

    Cái bệnh của Bệ hạ là bởi ngu muội, chưa từng đọc lịch sử cách mạng nước Pháp vậy. Nếu một mai biết được thời sẽ gục đầu chán nản, cuốn gói mà về sớm vậy.

    Cuối thế kỉ 18, cái oai chuyên chế của nền quân chủ Âu châu đã lên đến tột bực, thưởng phạt tùy ý, trẩm tức quốc gia, xem nhân dân như nô bộc, vãi tiền tài như đất bụi, cung thất huy hoàng, chơi bời xa xỉ, ăn mặc hoa mỹ, quỳ lạy tôn nghiêm, thật không phải là một ông vua một nước mang hư danh là bán tự chủ như Bệ hạ có thể tưởng tượng được. Thế mà hễ vật đã cực thời phản lại, đó là lẽ tất nhiên. Buổi ấy các danh sĩ nước Pháp, như Lư Thoa, Mạnh-Đức-Tư-Cưu, Phúc-Lộc-Đặc-Nhỉ, v.v… kế tiếp nhau nổi lên phát huy cái nghĩa nhân quyền, chẳng vài mươi năm mà cái thế lực ảnh hưởng ra khắp toàn Âu. . Dân tộc Pháp là tiên tiến nhất, huơ tay kêu lớn, ứng lại như vang, ngã rồi đứng dậy, càng tiến càng hăng, cho nên tấu được khúc khải hoàn, mà cái đầu của vua Lộ-Dịch thứ 16 của nước Pháp đã bêu cao trên đoạn đầu đài vậy. Bệ hâ qua thành Ba-lê, trông những đường phố rộng rãi, thấy có những tượng đồng nguy nga, đó đều là những tượng kỉ niệm những bậc thánh hiền hào kiệt đương thời đã ửng hộ tự do, cứu vớt mạng dân vậy. Phàm trong thế giới, quân chủ nào vô đạo thì thần ấy chẳng dung. Bệ hạ nên qua chơi công trường Công-cố (Concordre) và cung điện Versailles (Lộ dịch đã bị bắt ở Versailles và bị giết ở Công-cố) để điếu cái di tích màn chót nên quân chủ vô đạo, nhơn đó họa may có tự tỉnh chăng.

    Yừ thời ấy, chính thể nước Pháp đổi làm dân chủ, lập ra nghị viện dân cử, lập pháp, hành pháp, tư pháp, phân tách rõ ràng, mà nghị viện nắm hết chủ quyền của nước. Đến nay, chính phủ chuyên chế không còn dấu vết, nhân loại trông nhiều nước được hưởng nhiều hạnh phúc, tự do là nhờ dân tộc Pháp chảy máu trước mà được vậy. Sao Bệ hạ không xin vào điện Bourbon để nhận thấy cái khí tượng bác ái, bình đẳng, tự do của quốc dân cộng hòa, so sánh lại với cái chính thể chuyên chế đen tối ngàn năm của nước ta, thời thấy rõ cái chủ nghĩa dân quyền thần thánh bất khả xâm phạm, nó đương bồng bồng bột bộtnhư mặt trời giữa trưa, chiếu thấu cả bầu trời, mà về sau chính thể quân chủ tất không có chỗ đứng chân còn nói chi đến việc chuyên chế dã man nữa.

    Được như vậy chẳng phải sức người làm nên chăng? Thì đó cũng là luật thiên diễn không thể tránh được vậy.

    Ngày nay các dân tộc trên toàn cầu đều xưng nước Pháp là nước tổ dân quyền, không đúng hay sao? Không đúng hay sao?

    Đó, một nước danh dự như thế, một dân tộc danh dự như thế, xem lại hơn trăm hòm đồ quý của bệ hạ đáng giá bao nhiêu, lại dám đem bạch bích mà nhem thèm, đem huỳnh kim mà làm đen lòng, đi ngược lại phong triều thế giới, trái với công lý nhân đạo, làm dơ danh dự quốc dân, để vì Bệ hạ giữ cái vận mạng của nền quân chủchuyên chế nó đã gần tàn như giọt sương ban mai rồi. Nói rằng 20 triệu quốc dân oán là chuyện nhỏ, còn mặt mũi nào đối với vạn quốc trên thế giới ư? Xem vậy Bệ hạ đi chuyến này chắc chắn là thất bại, không còn ngờ gì nữa. Chỉ tiếc thay bao nhiêu mỡ của sáu, bảy triệu quốc dân ta, bao nhiêu cái kho tàng quý báu của nước nhà ta dành dụm mấy trăm năn nay, chỉ vì sự lơ lĩnh nhỏ nhen mà Bệ hạ đem vứt đi một cái, làm chìm lỉm hết thảy theo ngọn sóng Tây dương! Đó là bảy tội.

    Trở lên bảy điều, bởi có quan hệ quốc kế dân sinh, nên kể ra để buộc tội. Ngoài ra còn những điều xấu xa không thể kể xiết, bởi không quan hệ việc nước cho lắm, hoặc có dính đến đời tư cá nhân nên không kể đến làm gì.

    Ôi! Thế giới ngày nay dân trí tiến bộ mỗi ngày ngàn dặm, trước vài mươi năm nay, vua các nước lập hiến đã đem mọi chánh sự lớn nhỏ của quốc gia, hai tay dâng trả lại cho quốc dân, không dám hỏi đến, duy ngày đêm mong ước được giữ cái hư danh ở trên thần dân, khỏi mất nối dòng để xấu hổ đến tôn miếu, thời đã coi là cái phước lớn tày trời rồi, nhưng đến nay quốc dân họ còn lấy làm khó chịu, còn lo trăm kế để bỏ đi, để đạt được đến cái chủ nghĩa bình dân chân chánh mới hả dạ.

    vậy thời từ nay cái tàn quân chủ trong thế giới cũng không xa mấy, không cần phải khôn ngoan lắm mới biết vậy. Chẳng nói đâu xa, gần đây trong thời Âu chiến, bị quốc dân giết hoặc đuổi đi đã có 38 vua, trong đó có 3 ông Đại hoàng đế rồi.

    Như trước đã nói, chính thể nước ta, từ xưa là quân chủ độc tài, chính trị hay dở, quan lại hiền ngu, quốc dân không được hỏi đến. Nay thời thế nước càng ngày càng suy vi, mất cả cái tên Việt Nam trong bản đồ thế giới. Hãy xem các nước Á Đông, Tàu, Nhật không nói, còn Xiêm La là một nước xưa kia dân ta không thèm đứng ngang hàng, thế mà nay họ nghiễm nhiên đứng trong vòng bình đẳng với vạn quốc. Laị như Nam Bắc hai kỳ ở dưới quyền kinh lý của nước Pháp ràng buộc có rộng rãi hơn, nên có sinh sắc hơn. Còn 12 tỉnh Trung Kì thời rên rỉ mãi dưới chính thể chuyên chế vô trách nhiệm, không biết dựa vào đâu để nuối chút hơi tàn! Đó là tội của ai? Tội của ai? Xem đó thời chẳng quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy.

    Ôi! Xu thế bên ngoài đã như thê kia, mà tình thế nước ta lại như thế này , thời cái ngôi Bệ hạ đã nguy tợ như trứng mỏng, thật có như điều Hiếu Đế nhà Hán đã nói: “Mạng của Trẩm chẳng biết mất còn ngày nào đây!”. Vậy Bệ hạ còn mê muội khjông biết, tự ví mình với thần thánh, dắt bầy tiểu nhân núp bóng làm càn, công nhiên buông thói ăn lo ăn lót, người ta không nói không kể, dân nói không hay, lại còn nghịch thì thế, trái nhân tâm, nhen lại bếp tro tàn chuyên chế, dứt hẳn cái dân khí đã tôn thương lâu ngày, quơ hết châu báu của nước, quét sạch tài sản của dân. Thử hỏi: quốc thổ Việt Nam có phải là tư s3n của Bệ hạ hay sao? 20 triệu quốc dân há phải là gia bộc của Bệ hạ hay sao? Quan lại nước ta mục nát còn sợ chưa quá chừng hay chăng, mà còn phải có thêm Bệ hạ trưởng thêm lòng gian tham nữa? Danh hiệu Việt Nam e còn chưa nhơ nhuốc chăng mà còn phải có Bệ hạ ra dâng mùi hôi thúi, làm cho thiên hạ chê cười khinh dễ chẳng còn kể là loài người nữa? Dầu mỡ của quốc dân ta sợ chưa khô hết hay chăng, mà còn phải có Bệ hạ hoang phí vung vãi nữa? Than ôi! Nước ta tội gì mà phải chịu cái nghiệp chướng ấy! Dân ta tội gì mà phải đội thứ vua quỷ ấy! Nếu không cùng quần chúng trừ khử nó đi, tất phải cùng nó chết đắm nay mai thôi!

    Tôi viết đến đây, viết đã cùn tay đã mỏi, giấy đã hết mà điều tôi muốn nói hãy còn chưa hết, tôi phải khăng khăng mấy ngàn lời mà không thôi đó, chẳng phải công kích cá nhân Bệ hạ mà công kích hôn quân vậy; cũng không phải vì tư kỉ của Trinh mà làm; thật là vì 20 triệu đồng bào mà xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy. Thầy Mạnh nói rằng: “Đâu phải ưa biện luận, bất đắc dĩ mà thôi”, tâm sự của tôi cũng là thế đó.

    Nếu như Bệ hạ có đủ thiên lương, chút biết hối ngộ, biết quân quyền không thể cậy được, dân oán không thể khi được, thời phải sớm quay về, tự thoái vị trước, đem chính quyền trả lại cho quốc dân ta, để họ trực tiếp cùng dân tộc Pháp, tự mưu lấy lợi ích của họ, như vậy thời quốc dân ta còn lượng tình, không bạc đãi, cái kế Bệ hạ không còn kế nào hơn.

    Ví bằng chuyến đi này, thêm lòng táo bạo, không kể gì hết, cứ khư khư cắp ngôi chí tôn, cứ thi oai chuyên chế, làm đứt mạng mạch của nước trong cơn thùy nguy, đánh đắm quốc dân trong kiếp khổ lâu dài, nếu vậy thời Trinh này tất phải: trong cáo với quốc dân, ngoài hiệp cùng với nước Pháp, vì 20 triệu đồng bào, cùng Bệ hạ tuyên chiến quyết liệt, nguyện cho cái đầu của Trinh cùng với quân quyền chuyên chế dã man của Bệ hạ đồng thời rơi xuống đất, quyết không nỡ thấy vài mươi vạn dăm vuông giang sang đất nước, vài mươi triệu cha mẹ anh em, phải giao đứt vào tay hôn quân vậy!

    BỊ CHÚ

    1)- Thư này viết một bản bằng Hán văn gởi Bệ hạ, lại dịch ra Pháp văn đăng trên báo Pháp và rải truyền đơn, để rộng đường công luận của người Pháp.

    2)- Giữa tôi với Bệ hạ, đã đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói “dâng”; còn dùng hai chữ “Bệ hạ” đó là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải là tôn kính đâu.

    3)- Tôi là người phục tùng Nho giáo, nên không dùng thứ lễ chuyên chế đặt ra từ Tần Thỉ Hoàng về sau (Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, Khổng giáo đã mất), lễ ấy là hể gặp chữ tên húy của nhà vua thời phải tránh, cho nên đây tôi viết thẳng không kiêng, là tỏ ý phản đối (Nhật Bản đã bỏ lâu rồi, chỉ có ta còn giữ lối đó).

    Marseille, ngày 14 thàng 7 năm 1922
    Ký tên: Phan Châu Trinh


    (Phan Châu Trinh và Lê Ấm dịch, trích trong Thư thất điều NXB Anh Minh, 1958, Huế)
    Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

     

Quuyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts