Đạp Luồng Sóng Dữ
(ba màn, ba cảnh)
Bối Cảnh Lịch Sử
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, người quận Cửu Chân, huyện Nông Cống (tỉnh Thanh
Hóa bây giờ). Bà mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, nên ở với anh là Triệu Quốc Đạt.
Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà vào ở trong núi (1). Bà là người có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược. Bà chiêu mộ được hơn một ngàn tráng sĩ làm thủ hạ.
Có kẻ thấy thế khuyên bà nên lấy chồng, không nên làm loạn. Bà khẳng khái đáp lại rằng:
"Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển đông,
quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người
đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta" (2).
Năm 248, vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân chúng khổ cực, Bà cùng với anh là Triệu Quốc
Đạt đánh phá quận Cửu Chân. Bà rất can đảm, khi ra trận thường mặc giáp vàng, cưỡi đầu voi chiến đấu thật anh dũng. Quân sĩ tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Khi Triệu Quốc Đạt ốm chết, Bà tiếp tục một mình chỉ huy nghĩa quân kháng chiến gần 3 năm. Thứ Sử Lục Dận nhiều lần đem quân vây đánh, nhưng đều bị thất bại. Bà chống nhau với quân Lục Dận thêm năm, sáu tháng thì vì quân ít, thế cô nên bị thất bại, phải bỏ chạy đến xã Bồ Điền (nay là xã Phú Điền, huyện Mỹ Hoá, tỉnh Thanh Hoá) và phải tự tử. Năm ấy bà mới 23 tuổi.
Để tỏ lòng khen ngợi và tôn kính Bà, vua Lý Nam Đế (nhà Tiền Lý) đã sai lập đền thờ và
phong Bà làm Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân. (2)
Về cuộc nổi dậy của Bà Triệu
Sách sử không ghi ngày sinh, ngày mất, nhưng dựa theo sử liệu, ta có thể phỏng đoán Bà Triệu sinh năm 225, và mất vào năm 248.
Chúng ta đều biết Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm canh tí (40), đánh đuổi thái thú Tô Định ở quận Giao Chỉ, và được nhân dân các quận Cửu Chân (Thanh Hoá), Nhật Nam (miền Trung từ Hoành Sơn đến đèo Hải Vân), và Hợp Phố (tỉnh Quảng Đông bên Tàu), cùng hưởng ứng nổi dậy. Hai Bà Trưng thu được cả thẩy 65 thành trì và cùng lên làm vua đóng đô ở Mê Linh.
Nước Nam dành độc lập được ba năm, thì bị nhà Đông Hán sai tướng Mã Viện sang đánh chiếm, Hai Bà Trưng phải nhẩy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Từ đó, nhà Đông Hán xiết chặt nền đô hộ tại Giao Chỉ, tiêu diệt toàn bộ giới quí tộc bản sứ như Lạc Tướng, Lạc Hầu, đồng thời áp đặt chính sách cai trị dân Giao Chỉ một cách triệt để và hà khắc, cũng như đem phong tục tập quán từ bên Tàu sang đồng hóa dân Nam. Trong suốt 208 năm sau đó dân Nam đành phải sống tủi nhục, nô lệ, nhất là giới phụ nữ bị tước bỏ hết quyền tự do, khác với thời Hai Bà Trưng, nước Nam còn giữ được phần nào quyền tự trị...
Cũng vì thế, cuộc nổi dậy của Bà Triệu sau 208 năm kể từ ngày Hai Bà Trưng khởi nghĩa,
được đánh giá cao trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt, không phải về mặt quân sự,
nhưng về mặt tâm lý và chính trị... Cuộc nổi dậy này ví như một đốm lửa trong đống tro than tàn lụi từ thời cột đồng Đông Hán đe dọa dân Giao Chỉ, tới ngày được vị nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh nhóm lên và chuyển tới các thế hệ sau, để cùng tiếp nối cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, dành độc lập, qua các cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn còn gọi là Lý Bí nhà Tiền Lý (tức Lý Nam Đế năm 544-548, đặt tên nước Nam là Vạn Xuân), của Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương năm 549-571), của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), của Mai Thúc Loan (722), của Phùng Hưng (766-791), của Dương Thanh (819), của họ Khúc với Khúc Thừa Dụ (906-907), Khúc Hạo (907-917), Khúc Thừa Mỹ (917-923), và cuối cùng là cuộc khởi nghĩa của Ngô Vương Quyền (938) đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,
mở đầu trang sử độc lập cho nước Việt Nam! (Lịch sử Dân Tộc VN - Phạm Cao Dương-
Quyển 1)
Sơ Lược:
Hồi Một:
Tại một khu rừng, lính Ngô hung ác bắt dân Lạc Việt làm nô lệ, chặt cây đập đá cực khổ.
Nàng Mai và Nàng Trúc ngồi than thở, bị lính Ngô đến hành hung toan bắt trói, bèn chống
cự. Lão Bá cũng xông tới, nhưng tất cả đều bị quân tướng Ngô khống chế. Đang cơn nguy
cấp, Triệu Thị Trinh xuất hiện đánh đuổi giặc Ngô và được dân chúng khâm phục xin theo.
Mã Hầu là tên Lạc Việt gian cũng có mặt trong dân chúng để dò la tin tức.
Hồi HAI:
Quân Ngô đến bố ráp nhà ông Triệu Quốc Đạt để bắt Triệu Thị Trinh. Bà Đạt là chị dâu bị
quân tướng Ngô tra tấn lấy hết vàng, bèn thông đồng với Mã Hầu dùng thuốc mê bắt Triệu Thị Trinh để lãnh thưởng. Không ngờ Triệu Thị Trinh tỉnh dậy và bà chị dâu ác độc bị chính lưỡi dao nhọn của mình đâm chết. Triệu Quốc Đạt về, rất đau lòng, nhưng thấu hiểu nguyên do chỉ vì giặc Ngô gian ác, nên quyết định cùng em gái lên núi Cấm chiêu binh khởi nghĩa,
Hồi BA:
Trên Sơn Trại núi Cấm, Triệu Quốc Đạt đang ủy lạo ba quân, bỗng bị bạo bệnh, phải vào
hậu đường chữa trị và qua đời. Triệu Thị Trinh lên thay anh tiếp tục cuộc kháng chiến
chống quân Ngô. Tướng Ngô tấn công Sơn Trại thất bại, bèn chia quân bao vây và lên núi
chiêu dụ Triệu Thị Trinh về hàng. Triệu Thị Trinh cương quyết từ chối và chỉ huy nghĩa
quân phá vòng vây, đánh lấy quận Cửu Chân. Mã Hầu cũng xin cải tà quy chính, làm lính
tiên phong đi đánh giặc.
Đôi lời giới thiệu:
Kính thưa quý vị,
Năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định và quân Đông Hán, lên làm vua, cứu
nước Nam khỏi tròng nô lệ được 3 năm.
Hơn hai thế kỷ sau, vào năm 248 Bà Triệu cùng Anh là Triệu Quốc Đạt lại đứng lên nối tiếp bước đi của Hai Bà, chống lại quân Đông Ngô tàn ác tại quận Cửu Chân.
Bà Triệu, tên thật là Triệu Thị Trinh quê huyện Nông Cống (Thanh Hóa), mồ côi từ thuở
nhỏ, phải ở với anh và người chị dâu khắc nghiệt.
Bà không lấy chồng, và thường tỏ ra chí khí của một đấng anh hùng. Bà Triệu có sức mạnh và năng khiếu hơn người, ra trận mặc áo giáp vàng, cưỡi đầu voi, chiến đấu rất oanh liệt, khiến kẻ thù đều khiếp sợ.
Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do nào cũng phải trả bằng xương bằng máu. Đối với nữ anh hùng Triệu Thị Trinh, không những Bà đã phải trả bằng máu xương, mà còn phải chịu đựng sự lăng nhục của quân thù .
'Đạp luồng sóng dữ' là ý chí đấu tranh của Bà Triệu, cũng là một thách thức đầy hào khí
của tuổi trẻ Việt Nam, được dùng làm đề tựa cho vở kịch bi hùng dã sử này. Qua vở kịch,
chúng tôi hy vọng nói lên được phần nào nét kiêu hùng, và lòng quyết chiến của Bà Triệu,
không khoan nhượng trước chính sách chiêu an thâm độc, và âm mưu dùng bả phú quí ru ngủ dân của kẻ thù, để mãi mãi tên tuổi của vị nữ anh hùng Triệu Thị Trinh được con cháu hàng năm tưởng nhớ, ghi ơn..
Sau đây, kính mời quý vị theo dõi vở bi hùng kịch dã sử: "Đạp Luồng Sóng Dữ'.
Nhân Vật:
- Triệu Thị Trinh : 20 tuổi (cảnh một và hai), 23 tuổi (cảnh 3) khoẻ mạnh, tài trí, võ nghệ
cao cường.
- Triệu Quốc Đạt: Anh Triệu Thị Trinh, có võ nghệ và có gan 'chọc trời khuấy nước".
- Bà Đạt : Vợ Triệu Quốc Đạt (chị dâu Bà Triệu), tính tình cay độc.
- Mã Hầu : Người Lạc Việt, làm việc cho quân Ngô.
- Nàng Trúc: Thiếu nữ, sinh ra trong thời loạn, võ nghệ giỏi và có lý tưởng đánh đuổi ngoại
xâm.
- Nàng Mai : Thiếu nữ, là em Nàng Trúc, có võ nghệ và có cùng một lý tưởng với Nàng
Trúc.
- Tướng Ngô : Khỏe mạnh, lực lưỡng, có võ nghệ và rất tàn bạo đối với dân Lạc Việt.
- Phó Tướng Ngô: Lanh lẹ, khoẻ mạnh.
- Lão Bá: Một cụ già Lạc Việt, giỏi võ.
- Một số dân làng Lạc Việt.
- Một số lính Ngô.
Cảnh
Cảnh một : Cảnh rừng núi, Lạc dân bị quân Ngô bắt làm nô lệ, bị đánh đập tàn nhẫn.
Cảnh hai : Cảnh trong nhà Triệu Quốc Đạt, gian chính đường có bàn thờ Tổ Tiên, và bàn
ghế để tiếp khách.
Cảnh ba : Cảnh Tụ Nghĩa Đường trên Sơn trại, chiến khu của Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị
Trinh kháng chiến chống quân Ngô, có hai ghế bành dành cho trại chủ và phó trại chủ, hai
ghế tiếp khách, cờ xí và binh khí bày la liệt).
Mở Màn
Hồi Một - Cảnh Một
(cảnh một khu rừng, những người Lạc Việt bị quân Ngô bắt làm nô lệ, đập đá chặt cây rất cực khổ. Trong đám này có Nàng Trúc, Nàng Mai là hai chị em và Lão Bá cùng biết võ).
Tiếng ngâm hậu trường:
Nước ta, sau Trưng Vương khởi nghĩa,
Lại sa vòng nô lệ gian truân.
Hai trăm năm sống nhục nhằn,
Người Lạc Việt đã âm thầm nổi lên!
Quận Cửu Chân, tương truyền Bà Triệu
Gái anh thư, năng khiếu hơn người.
Đạp luồng sóng dữ ra khơi...
Quyết tâm chém cá Kình ngoài biển Đông.
Nàng Mai (lấy vạt áo lau mồ hôi, lấm lét nhìn quanh rồi nói với Nàng Trúc):
- Chị Trúc, em mệt quá à. Cực khổ như vầy, hay mình trốn đi!
Nàng Trúc (vẻ sợ hãi, dơ tay lên miệng suỵt khẽ):
- Suỵt! Bọn lính Ngô kia kìa!
Nàng Mai (than):
- Đời nô lệ, một cuộc đời thê thảm!
Biết bao giờ mới thấy cảnh yên bình?
Nàng Trúc (nhìn Nàng Mai, thở dài):
- Hà! Nàng Mai, em một đóa hoa xinh
Luôn khao khát ánh bình minh rực rỡ!
Nhưng ...giặc Ngô kia hoành hành tráo trở!
Như đám mây đen che khuất mặt trời.
Bọn chúng tham tàn, đàn áp nơi nơi...
Mỗi câu nói, tiếng cười đều e ngại!
Nàng Mai (bỗng giật mình nhìn quanh):
- Chị nói đúng, những ai toan chống lại,
Đều bị bắt giam, chẳng thấy ngày về!
Nhưng em nghe đồn tại một xã kia
Có cô gái tài ba, không hề khiếp sợ!
Nàng Trúc:
- A! Em muốn nói Triệu cô nương nào đó
Xuất nhập như thần, võ nghệ tinh thông?
Bọn lính Ngô đều kiêng nể tin đồn...
Ai cũng nghe danh mà chưa biết mặt!
(Nàng Trúc và Nàng Mai đang thì thào trò chuyện, chợt Phó Tướng Ngô và lính Ngô xông
tới cầm roi đánh người túi bụi, vừa quát tháo om sòm và bắt trói một số dân. Tiếng la hét,
kêu khóc vang trời. Nàng Trúc và Nàng Mai cùng vung gậy chiến đấu, nhưng địch không
lại. Lão Bá cũng nhào ra, nhưng đánh được vài quyền thì thua. Đang cơn nguy kịch, bỗng Triệu Thị Trinh xuất hiện).
Triệu Thị Trinh:
- Bớ giặc Ngô! Ngừng tay! Có Triệu cô nương đây...!
(dân chúng ồn ào reo vui):
- Triệu cô nương, Triệu cô nương! Cứu chúng tôi với!
Tướng Ngô:
- Hừ! Triệu Ẩu!
Ta nghe đồn ngươi, võ công xuất chúng,
Sức mạnh hơn người, mưu trí uyên thâm.
Sao chẳng tiến thân, thần phục triều đình?
Lại lạc lối lầm đường, toan bề làm loạn!
Triệu Thị Trinh (cười gằn):
- Ngô tặc!
Các ngươi đã nghe, Triệu cô nương vô địch!
Sao chẳng buông gươm, còn đứng đó huyênh hoang?
Nước Văn Lang, sừng sững một trời Nam.
Có lẽ nào người Lạc Việt,
Phải cúi đầu phục tùng người phương Bắc?!
Tướng Ngô:
- Ngươi phải biết, ta chính danh dẹp giặc!
Đất Giao Châu là quận huyện của Ngô triều...
Thiên tử bao dung cho khai hóa man, miêu,
Người Giao Chỉ phải nghe theo mệnh lệnh!
Triệu Thị Trinh (cười chế nhạo):
- Ha ha ha! "Khai hoá man, miêu?'
Dân ta đâu phải man, miêu,
Mà cần giặc Ngô khai hoá!
Nước Văn Lang, văn hiến đã ngàn năm.
Khỏi nói lôi thôi,
Hãy đỡ đường kiếm của Triệu cô nương!
Rồi liệu rút về Bắc phương sinh sống.
(Triệu Thị Trinh đấu gươm với tướng Ngô, trong khi dân chúng hò reo nổi loạn vơ gậy gộc
đánh lại đám lính Ngô khiến chúng bị thương ôm đầu chạy trốn hết. Tướng Ngô nhắm đấu không lại Bà Triệu, bèn chém mạnh một gươm rồi nhẩy ra khỏi vòng chiến.)
Tướng Ngô (đe doạ):
- Hừ! Bữa nay ta không thèm đánh với đàn bà!
Nhưng nhà ngươi đừng vội kiêu căng,
Ngày phục thù sẽ chẳng có bao năm.
Ngươi sẽ phải nếm mùi thất bại...!
(tướng Ngô nói xong bèn bỏ chạy theo đám tàn quân. Triệu Thị Trinh không đuổi theo,
đứng nhìn đám nông dân đang reo hò chiến thắng).
Nông dân:
- Hoan hô Triệu cô nương! Hoan hô Triệu cô nương!
Triệu Thị Trinh (chắp hai tay chào khiêm nhượng):
- Không dám...không dám...
Tiểu nữ xin kính chào bà con cô bác!
(lên giọng diễn thuyết hùng hồn)
Hỡi những ai con Hồng cháu Lạc!
Hãy mau mau thức tỉnh cơn mê...
Đừng cúi đầu nô lệ giặc Ngô kia,
Mất hết tự do, ê chề tủi nhục!
(đám đông cùng vỗ tay tán thưởng, và hô to: - Tự do...Tự do...!)
Triệu Thị Trinh (nói tiếp)
- Chúng gian dối, bạo tàn, xâm lược!
Đem thuyết phi nhân "khai hoá phương Nam".
Thực chất chỉ là một lũ gian manh.
Đô hộ dân ta bằng luật rừng "đàn áp"!
(dân chúng vỗ tay, và hô to):
- Đả đảo giặc Ngô...Đả đảo!
(Nàng Trúc và Nàng Mai cùng chạy ra chắp tay chào Triệu Thị Trinh):
Nàng Mai:
- Chúng em, Nàng Mai và Nàng Trúc,
Xin nghiêng mình, kính phục Triệu cô nương.
Nàng Trúc:
- Từ bấy lâu, vẫn ngưỡng mộ tin đồn.
Nay mới thấy, một tâm hồn yêu nước.
Triệu Thị Trinh (đáp lễ):
- Chào Nàng Mai và Nàng Trúc,
Hân hạnh, hân hạnh!
Lão Bá:
- Thưa Triệu cô nương và bà con cô bác,
Kể từ Mê Linh, Lĩnh Nam đã mất
Vào tay Hán quân. Mã Viện ngang tàng
Cho dựng cột đồng, khủng bố dân Nam...
Hình ảnh Trưng Vương vẫn còn sáng chói!
Nàng Mai (tiếp lời):
- Ôi hai trăm năm, lòng dân khao khát
Một tiếng chuông reo, thức tỉnh cơn mê!
Nàng Trúc:
- Nay Triệu cô nương khởi dậy câu thề:
Ngừời Lạc Việt, một trời Nam riêng biệt.
Nàng Trúc và Nàng Mai:
- Chúng em, khâm phục...khâm phục...
Xin được Cô nương cho theo hầu dưới trướng...
(đám nông dân cùng reo hò kéo tới xin theo Bà Triệu, trong đó có Mã Hầu làm mật thám
cho quân Ngô cũng giả bộ tới gần dò la tin tức).
Lão Bá (đứng ra đại diện nông dân phát biểu):
- Chúng tôi cùng tự nguyện,
Đi theo Triệu cô nương.
Đánh đuổi ngoại xâm, chính là bổn phận
Của mỗi người dân đối với quê hương...
Triệu Thị Trinh (cảm động):
- Đa tạ...xin đa tạ...
Những tấm lòng nồng nhiệt...
Của bà con còn nghĩ đến quê hương.
Mong được anh hùng, hào kiệt bốn phương
Góp một bàn tay, đợi buổi lên đường...
Mang tâm huyết, hẹn thề ngày cứu nước!
(Tất cả cùng đồng thanh dơ tay xin thề, chỉ có Mã Hầu lỉnh trốn bỏ đi):
- Xin thề cùng hẹn ngày cứu nước!
(mọi người cùng bịn rịn chào nhau chia tay. Màn hạ hết cảnh một)
Hồi Hai - Cảnh Hai:
(cảnh trong nhà Triệu Quốc Đạt. Bà Đạt đang dùng phất trần phủi bụi bàn ghế. Bỗng có
tiếng đập cửa rầm rầm).
Phó tướng Ngô (đập cửa):
- Mở cửa...Mở cửa...! Có Quan xét nhà... Mở cửa!
Bà Đạt (quăng vội phất trần, sợ hãi chạy ra mở cửa):
- Bẩm...Bẩm quan ...con mở... con mở!
(Tướng Ngô, Phó Tướng Ngô, Mã Hầu và một đám lính Ngô cùng sục vào nhà gươm dáo
đầy mình, chia nhau lục soát khắp nơi.)
Phó tướng Ngô (dơ cao lưỡi gươm đe doạ):
- Triệu Ẩu đâu? Triệu Ẩu đâu?
Bà Đạt (quýnh quáng):
- Dạ, dạ...con không biết...à...à...
Triệu ...Triệu...không có nhà!
Phó tướng Ngô:
- Không có nhà...vậy đã đi đâu?
Bà Đạt (lấy tay khều khều Mã Hầu cầu cứu):
- Bẩm Đại quan... thực tình con không biết!
Nó là em chồng, con phận chị dâu...
Chị dâu, em chồng...có hợp nhau đâu!
Quan thấy đó...thực tình con không biết.
Mã Hầu (Ra hiệu cho Bà Đạt ngưng nói, để hắn liệu bề giúp đỡ):
- Bẩm Tướng quân...bữa qua tôi có thấy
Triệu cô nương tụ họp với nông dân,
Cắt máu ăn thề, nổi loạn rần rần...
Rồi họ kéo nhau trốn lên núi Cấm.
Tướng Ngô (ra lệnh cho lính Ngô):
- Quân hầu! Các ngươi hãy lục soát khắp nơi
Thấy chi bất thường báo cho ta biết!
Phó tướng Ngô (Sau khi lục soát xong, về báo cáo):
- Dạ...xin báo cáo thượng cấp:
Chúng tôi đã lục soát
Hết khắp cả mọi nơi.
Người thì không thấy có...
Vàng bạc....chẳng ... tăm hơi !
Tướng Ngô (quát tháo):
- Thế là thế...nào?
Quân đâu? Tra tấn!
(Phó tướng Ngô túm lấy Bà Đạt, toan trói lại để tra tấn, khiến Bà Đạt sợ hãi thất kinh, vội
cầu cứu Mã Hầu).
Bà Đạt:
- Mã huynh...Mã đại nhân...cứu em...!
(Mã Hầu đến gần viên tướng Ngô ghé tai thì thào nói nhỏ mấy câu).
Tướng Ngô (ra lệnh):
- Thôi được, để ta lo
Các ngươi hãy ra ngoài canh gác.
Phó tướng Ngô:
- Xin tuân lệnh.
Tướng Ngô ( chờ cho đám lính ra hết bên ngoài mới dịu giọng):
- Này Bà Đạt!
Bà Đạt:
- Dạ...
Tướng Ngô:
- Ta nể lời Mã Hầu,
Tìm người... sẽ tính sau.
Bây giờ kiếm ...đồ cấm...
Vàng bạc ...bà giấu đâu?
Bà Đạt (nhìn Mã Hầu, thấy ông ta gật gật đầu bèn khai):
- Dạ...bẩm quan...
Trong cái ruột tượng này!
Người thì dấu ...không được,
Nhưng vàng...có mấy cây!
Tướng Ngô (được vàng thì tít mắt lại. Hắn dặn vội mấy câu rồi ra ngoài kêu lính về trại, sợ ở lại phải chia vàng cho Mã Hầu):
- Này này ông Mã Hầu!
Ông cứ ở lại đây!
Tôi kêu lính về trước,
Có gì báo tôi hay!
Mã Hầu (chờ cho viên tướng Ngô đi khỏi mới than thở):
- Chán quá khoai với ngô!
Vừa tham vừa bội bạc.
Công ta...chẳng thưởng cho!
Còn làm le sai vặt!
Này Bà Đạt...!
Bà Đạt (biết ý Mã Hầu, bèn nhanh nhẩu):
- Được... Mã huynh cứ yên tâm
Phần ai còn có đó!
Miễn là huynh giúp đỡ,
Em sẽ biết đền ơn!
Ôi...!
Đây là cây vàng chót!
Rồi...biết sống sao ...trời!
(nói xong Bà Đạt moi ra một cây vàng dấu trong yếm đưa cho Mã Hầu, vừa khóc lóc thảm thiết).
Mã Hầu (giắt cây vàng dấu vào cạp quần xong mới an ủi):
- Bà Đạt cứ yên tâm,
Còn người còn có của!
A...Triệu tiểu thư còn đó!
Tiền thưởng ...tiền thưởng...
Ha ha ha...Ha ha ha...
Bà Đạt (hiểu ý Mã Hầu muốn bày mưu bắt Triệu Thị Trinh để lãnh thưởng, bèn vội đưa tay áo chùi nước mắt, rồi cười ré lên):
- Ha ha ha!...ha ha ha...!
Thuốc mê...thuốc mê...
Tiền thưởng...tiền thưởng!
(Bà Đạt đến bàn thờ, lôi ra một gói thuốc mê dấu dưới gầm bàn, bỏ vào bình rượu xong ôm
chầm lấy Mã Hầu, vưà chỉ bình rượu có thuốc mê vừa cười đắc ý. Hai người còn đang nắm
tay nhau cười, Bỗng Triệu Thị Trinh đẩy cửa bước vào).
Triệu Thị Trinh (đằng hắng):
- Hừm!
Bà Đạt (thấy em chồng về, vội đẩy Mã Hầu ra, quát tháo om sòm để chữa thẹn):
- Cô đi đâu về?...Cô có biết?
Suýt nữa thì ta đã chết vì cô!
Hả...Hả?...
Triệu Thị Trinh (rất khó chịu vì tính lả lơi bất chính của chị dâu, nhưng nàng cố nhịn, ầm ừ trả lời, rồi nhíu mắt nhìn tên Mã Hầu tỏ vẻ ngờ ngợ như đã gặp hắn ở đâu):
- Chào chị,
Này! Xin lỗi...Khách quan ...
Hình như ...tôi đã gặp ông...?
Bây giờ trời chưa tối!
Mà ông cũng dám tới ...
Tự tình với chị dâu tôi?
Bà Đạt (tức điên lên):
- Im mồm! Cô không được nói bậy!
Mã Hầu (lấy lại bình tĩnh, ôn tồn giải thích):
- Xin chào Triệu tiểu thư...
Tại hạ có nghe danh tiếng,
Nay duyên may được diện kiến dung nhan.
Quả thực chúng tôi nói chuyện đàng hoàng,
Nhưng vì quá vui mới thành suồng sã.
Đắc tội...đắc tội...!
Bà Đạt (vẫn còn tức, nói hớ):
- Cô chưa biết thân, mà còn lớn lối!
Ngô tướng quân vừa mới tới ...
Mã Hầu (sợ Triệu Thị Trinh bỏ trốn thì mất ăn tiền thưởng, bèn ra hiệu cho Bà Đạt im, rồi giả lả):
- Ơ ... chẳng có gì quan trọng,
Rảnh ghé qua đây...xin miếng nước uống thôi!
Tôi cũng muốn chờ ông Đạt rủ đi chơi!
Triệu Thị Trinh (hơi chột dạ):
- Có phải Ngô tướng quân...trên dinh thái thú?
Bữa nay sao... rồng lại tới nhà tôm?
Còn ông...chẳng lẽ ...ông...
Cũng theo thái thú làm quan?
Bà Đạt (nghiến răng đe dọa):
- Đó là Quan Mã Hầu...cô hãy liệu hồn!
Con gái lớn...chẳng biết giữ thân...
Chỉ tối ngày đua đòi cung kiếm!
Triệu Thị Trinh:
- Thưa chị...
Chuyện riêng của tôi, xin đừng ý kiến.
(quay qua Mã Hầu):
- Chào Mã tiên sinh...
Xin thứ lỗĩ...
Không ngờ chuyện gia đình,
Lại phiền tới tiên sinh.
Mã Hầu (khoát tay):
- Không sao, không sao...tôi cũng thể người nhà,
Chỗ ông Đạt cũng là bằng hữu!
Bà Đạt (phân trần):
- Đó Mã huynh thấy đó!
Cô ấy được anh nuông chiều từ nhỏ,
Nên đã quên mình là phận nữ nhi
Giống như con trai, làm toàn chuyện thị phi...
Hết gánh việc làng, lại sang việc nước.
Triệu Thị Trinh (đối đáp):
- Thưa...tôi cũng là người...
Gái hay trai cùng là dân một nước!
Bổn phận mỗi người lo tròn sau trước.
Nước mất hay còn tùy thuộc trăm dân!
Cuộc đời mỗi người, mỗi bến tử sinh,
Có lẽ khác nhau... kẻ biết sống quên mình,
Yêu tha nhân...hay chỉ sống cho tình ích kỷ!
Mã Hầu:
- Chí lí...quả là chí lí...!
Tại hạ biết Tiểu thư tài ba xuất thế,
Công tử Giao Châu ngấp nghé ngày đêm!
Sao chẳng theo...ông tơ bà nguyệt se duyên,
Lại lo việc kiếm cung, mang tiếng đồn... làm loạn!
Triệu Thị Trinh (nghe hai tiếng "làm loạn", bèn quắc mắt nhìn Mã Hầu):
- Làm loạn...! Hừ! Làm loạn...!
Kẻ thống trị nào, mà không võ đoán?
Ai không theo mình, là phản loạn...phi nhân...
Làm người dân cũng phải có quyền dân,
Quyền ăn nói, quyền tự do tư tưởng!
Mã Hầu (giả bộ sợ hãi):
- Dạ... đúng..đúng! Xin lỗi! Xin lỗi!
Tại hạ chỉ muốn hỏi
Tiểu thư sao chẳng lấy chồng?
Còn những tiếng đồn, thì không phê phán!
Triệu Thị Trinh (cười khẳng khái):
- Ha ha ha ...
" Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ,
chém cá tràng kình ở biển đông,
quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối,
chứ không thèm bắt chước người đời
cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta!" (3)
Mã Hầu ( bước ra trịnh trọng vái một vái tỏ vẻ khâm phục):
- Khâm phục...Khâm phục!
Lời nói khẳng khái...Tư tưởng siêu phàm!
Mã Hầu tôi xin ngàn lần khâm phục!
Triệu Thị Trinh (đáp lễ):
- Không dám!
Mã Hầu (cung kính rót một ly rượu đưa hai tay mời Triệu Thị Trinh):
- Thưa Triệu tiểu thư, đây là ly rượu...
Tại hạ ...xin mời.. thay lời ..tạ lỗi...
Triệu Thị Trinh ( đỡ lấy chung rượu một cách thản nhiên đưa lên môi uống một ngụm):
- Xin mời!
(sau đó Triệu Thị Trinh cảm thấy choáng váng, xây sẩm mặt mầy, té xuống đất nằm im)
Bà Đạt (tới gần đưa tay khẽ lay nhưng thấy Triệu Thị Trinh nằm im, thì mừng rỡ):
- Xong ! Xong rồi! Mã huynh!
Triệu Thị Trinh đã sỉu,
Mau mau lên trên Huyện,
Báo cáo Ngô tướng quân,
Kẻo để lâu sinh chuyện!
Mã Hầu (quan sát thấy Triệu Thị Trinh nằm im thì cảm thấy yên tâm, bèn dặn dò trước khi đi báo ):
- Bà Đạt hãy coi chừng,
Nếu cần thì trói lại.
Tôi lên Huyện báo quan,
Ta sẽ bàn tiền thưởng...
Ha ha ha...
Bà Đạt:
- Ha ha ha...!
Ta đi tìm dây trói,
Trói mi lại như heo,
Đem lên Huyện lãnh thưởng,
Vàng bạc ôi... thật nhiều!
(Bà Đạt vào nhà)
Triệu Thị Trinh (may uống ít rượu, nên chợt tỉnh, lảo đảo đứng lên):
- Ôi... nhức đầu quá! Ta đang ở đâu?
Ô.. ờ...Mã Hầu...Chị dâu...?
Bà Đạt (một tay cầm dao, một tay cầm dây trói, từ trong nhà đi ra thấy Triệu Thị Trinh đã tỉnh dậy thì hốt hoảng sợ hãi, vội xông tới chém như điên như dại):
- Con tiện tì! Mi đã tỉnh? Hừ! Cũng vì mi làm loạn,
Ta mất hết vàng... Ta phải giết mi!
Ta phải giết mi,,,!
Triệu Thị Trinh (thấy chị dâu vừa la lối vác dao chém mình, thì chợt hiểu câu chuyện, bèn vung gươm đỡ, nhưng bà chị dâu ác độc đã lỡ trớn té xuống, bị chính lưỡi dao nhọn của
mình đâm lủng bụng, bỏ mạng):
- Ác phụ! Ta không ngờ...!
Bà Đạt (la to rồi gục xuống):
- Ôi.! Chết tôi...!
(vừa lúc Triệu Quốc Đạt trở về).
Triệu Quốc Đạt (vào nhà nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng bèn la lên):
- Em Trinh...Em Trinh ...Có chuyện gì?
Triệu Thị Trinh (Nét mặt buồn buồn):
- Chị dâu đã chết rồi!
Triệu Quốc Đạt (kinh sợ):
- Chết rồi!?
Triệu Thị Trinh (giải thích):
- Em không ngờ chị dâu,
Thông đồng với Mã Hầu.
Toan bắt em, lãnh thưởng.
Cớ sự mới thương đau...!
Triệu Quốc Đạt (đến vuốt mắt cho bà vợ xấu số, thở dài):
- Hà!...Ta vẫn khuyên nàng, đừng làm điều xấu!
Niệm Phật ăn chay, tránh dữ theo lành...
Không ngờ...mầm ác đã nằm trong máu, trong tâm!
Cứ gieo gió, ắt có ngày gặt bão!
Triệu Thị Trinh (thở dài):
- Em ...em thật có lỗi...!
Triệu Quốc Đạt (đứng lặng trước bàn thờ tổ tiên):
- Không!... Anh mới là người có lỗi.
Bởi không chu tất việc nhà.
Phút lâm chung, mẹ còn trăn trối:
"Săn sóc em, côi cút nương nhờ"
Chuyện đau thương ấy ai ngờ...?
Cửa nhà tan nát... em thơ đọa đầy...!
Triệu Thị Trinh (cảm động):
- Anh...Anh...em xin lỗi,
Làm anh phải đau lòng!
Nhưng hiểm nguy trước mắt...
Quân Ngô sắp tới đông!
Triệu Quốc Đạt (nghiến răng căm hận quân Ngô):
- Hừ! cũng bởi giặc Ngô kia xảo quyệt,
Chúng vừa bạo tàn, vừa chiêu dụ nhân dân!
Đem bả lợi danh, khêu gợi lòng tham
Những kẻ u mê, ê chề đắm đuối!
Triệu Thị Trinh:
- Em phải đi ngay, trước khi quân Ngô tới.
Ta sẽ gặp nhau trên Núi Cấm, bên sông...
Triệu Quốc Đạt:
- Ừ!... Em đi trước đi, Anh vì nghĩa vợ chồng,
Lo mai táng nàng xong, sẽ tìm lên Núi Cấm...
Triệu Thị Trinh (chào tạm biệt):
- Em sẽ chờ anh, cùng xông pha chiến trận,
Đánh đuổi giặc Ngô, dù phải hy sinh!
Theo gương người xưa, vì nước quên mình.
Giải thoát quê hương khỏi vòng nô lệ!
Xin tạm biệt!
Triệu Quốc Đạt:
- Tạm biệt!
(Triệu Thị Trinh được Nàng Trúc, Nàng Mai và Lão Bá hướng dẫn một đoàn Nghĩa binh đến
đón, tất cả cùng hùng dũng đi lên Núi Cấm lập khu chiến đánh nhau với quân Ngô, theo
tiếng nhạc trầm hùng).