Võ thuật là kỹ thuật hay phương thức dùng sức mạnh (nội lực, ngoại lực) để chiến thắng đối phương. Với tư cách là một nghệ thuật vận động sản sinh ra trong đấu tranh giữa con người với thiên nhiên (các loài thú dữ), con người với kẻ thù bên ngoài (địch thủ), và con người với kẻ thù bên trong chính bản thân anh ta (bệnh tật), võ thuật hướng đến mục tiêu đem lại cho con người sự chiến thắng trong các cuộc chiến, rèn luyện sức khỏe, và phục vụ một số nhu cầu cần thiết tùy thuộc vào từng bộ môn.

Trải theo thời gian, võ thuật hiện đại không còn nhấn mạnh vai trò chiến đấu và chiến thắng bằng mọi giá như trước, mà đã chú trọng hơn nhiều đến các mục tiêu khác như để rèn luyện sức khỏe, thực thi quyền tự vệ chính đáng khi hữu dụng. Một số môn phái được đưa ra thi đấu như những môn thể thao biểu diễn hoặc đối kháng với những điều luật khắt khe nghiêm cấm sử dụng -các đòn đánh hiểm, độc.

I - Những khái niệm gần gũi

Tuy có thể đồng nhất "Võ" và "Võ thuật", nhưng thực ra hai khái niệm ít nhiều vẫn có ranh giới. "Võ", nói chung, chỉ lối đánh nhau bằng tay không hay binh khí, và đôi khi, nhằm chỉ một bộ môn đối lập với "văn"; còn "võ thuật" lại thiên về nghệ thuật vận động hơn. Theo đó võ thuật đề cao phương pháp, cách thức, sự khéo léo, kỹ thuật, nghĩa là sự phát huy toàn diện sức mạnh của con người để chiến thắng mọi địch thủ mà không chỉ là những đối thủ trực diện trên sàn đấu. Bên cạnh các thuật ngữ trên còn có thuật ngữ "Võ nghệ", vừa có nội hàm rất gần với thuật ngữ võ thuật, vừa mang ý nghĩa nghề nghiệp, khẳng định võ cũng là một nghề trong xã hội, nghề võ. Cũng không thể không nhắc đến một khái niệm thường được các võ đường và các võ sư đề cao, thuật ngữ "Võ đạo", nhấn mạnh tính nhân văn, văn hóa trong võ thuật, khẳng định tột đỉnh của võ là văn, đằng sau võ học là cội nguồn triết học, hạt nhân đạo đức và chiều sâu tôn giáo, đồng thời đưa sự khốc liệt có tính bản chất của võ, một công cụ để tàn sát, xuống hàng thứ yếu.

II - Các môn công phu

Hệ thống công phu võ thuật hợp thành "tứ đại công phu", gồm Nội công, Ngoại công, Nhuyễn công và Ngạnh công, trong đó Nhuyễn Ngạnh công phu tuy có khi được xếp vào hệ thống Ngoại công, nhưng vẫn thường thấy sự khu biệt của nó do những điểm đặc thù:

1/. Nội công

Là những phương thức luyện tập bằng cách sự tập trung tối đa tâm ý khí lực theo những phương thức đặc biệt nhằm phát huy các năng lực bí ẩn của con người, khi luyện thành thì có thể dùng tĩnh chế động. Nội công bao gồm các phương thức luyện tập:

- Luyện tập tĩnh: Là phương pháp luyện tập bằng cách các hành giả ngồi yên lặng trong không khí tĩnh mịch và thả lỏng thể xác cũng như tâm hồn để luyện tập, như Nội công thiếu lâm tự
- Luyện tập động: Là phương pháp các hành giả chuyển động theo các bài tập nhằm tập trung tinh thần để luyện ý, như Bát đoạn cẩm Thiếu lâm.

2/. Ngoại công

Là các công phu luyện ngoại lực, có thể bao gồm trong nó cả Nhuyễn công và Ngạnh công, với các phương thức luyện tập các chiêu thức tấn công linh hoạt, mạnh mẽ và từng phần cơ thể để phòng thủ hữu hiệu. Khi luyện đại thành thì sức lực di hành khắp chân thân không bị ngăn trở, do đó muốn vận dụng đến sức thì sức có ngay, thân thể cương cường, da thịt gân xương đều cứng chắc, đến đao kiếm cũng khó bề gây thương tích. Ngoại công bao gồm các phương thức tu luyện:

- Luyện tập hình: Là luyện tập các kỹ năng có hình dáng cụ thể, như Bát quái Quyền.
- Luyện tập ý: Là luyện sao cho đúng ý của các bài luyện, ví dụ như Triệt quyền đạo, Thái cực Quyền.
- Luyện tập pháp thể: Là luyện thể lực và thể hình, như Đấu vật, Su mô

3/. Nhuyễn công

Là các công phu chuyên luyện lực âm, nhu lực, âm công, khi luyện đại thành thì bề ngoài cơ thể không có biểu hiện gì của người biết võ (như tay chân không sần sùi, cơ thể không cường tráng), nhưng lực đánh ra rất nguy hiểm (nên nhiều khi được gọi là độc thủ). Tương truyền, một số công phu như Nhất chỉ thiền công (luyện phóng một ngón tay), Quan âm chưởng (luyện cạnh tay), Tỉnh quyền công (luyện quyền bằng cách đấm tay xuống giếng) có thể đả thương người từ xa, Nhu cốt công luyện khớp xương toàn thân mềm dẻo v..v..v

Tương truyền ở Nhật Bản từ xa xưa lưu truyền một môn võ thuật có tên là Bí thuật Nhu công. Người luyện tập nhìn bề ngoài có vẻ rất yếu đuối nhưng khi ra tay thì vô cùng tàn độc, nhất là những đòn đánh Cầm nã thủ lấy mạng người dễ dàng vô cùng. Các chiêu thức tung ra gần như chỉ để có một mục đích là lấy mạng đối phương mà thôi.

Vào đệ nhị thế chiến, môn võ thuật này nghe nói được phổ biến cho các chiến sĩ trong những lực lượng cảm tử và sát thủ, nhưng sau này bị cấm và mất đi tông tích bởi vì quá độc ác mà cho tới nay chưa ai rõ lý do thất truyền, chỉ biết rằng một kẻ luyện tập môn võ này dù có thân thể bệnh hoạn yếu ớt, một khi đã dốc lòng luyện tập đều có thể trở thành cỗ máy giết người

4/. Ngạnh công

Là các công phu chuyên luyện sức mạnh dương cương, dương lực, dương công, như Thiết sa chưởng (chưởng tay sắt), Thiết tảo trửu (chân quét), Thiết tất cái (đầu gối).Trong đó phải kể tới các môn công phu của Thiếu Lâm rất đặc sắc như : Thập tam thái bảo (thân thể cứng),Thiết bố sam (thân cứng như sắt),Đồng tử công (cũng luyện thân thể)... Khi luyện đại thành thì tay chân người tập chai sần, cứng như sắt, cơ thể tráng kiện, cơ bắp cuồn cuộn. Sức mạnh đòn đánh có được khi đòn tiếp xúc với cơ thể đối phương với uy lực khủng khiếp

III- Võ thuật và các bộ môn hỗ trợ

1/. Hô hấp: Trong võ thuật, hô hấp được chia làm hai loại chính là Nội hô hấp và ngoại hô hấp.

Các phương pháp hô hấp này có trong võ thuật là do Bồ Đề Đạt Ma và các môn đồ Thiếu Lâm, các môn đồ các phái võ Trung Hoa hấp thu từ các phương pháp luyện thở của Yoga và Phép đạo dẫn (luyện thở, luyện hô hấp) của các trường phái Đạo gia để vận dụng chúng huy động nguồn sức mạnh của thân xác và tâm trí đạt hiệu quả cao khi luyện võ công.

- Nội hô hấp

Đây là hoạt động của chân khí, là sự tiếp thu dưỡng khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào và biến chuyển các dạng năng lượng. Hoạt động này bắt đầu từ lúc cơ thể con người chỉ là thai nhi. Nội hô hấp theo thời gian sẽ dần thoái hóa nhường chỗ cho ngoại hô hấp tiến triển.

- Ngoại hô hấp

Thể hiện cho hoạt động hô hấp bằng mũi, bắt đầu xuất hiện khi chúng ta ra khỏi bụng mẹ. Ngoại hô hấp dần dần phát triển mạnh mẽ để nuôi dưỡng và cung cấp dưỡng khí cho cơ thể.

2/. Khí: Khí động học

- Dựa trên các quy luật tự nhiên để chuyển động, nguyên tắc chủ yếu là thuận theo quy luật tự nhiên, mọi thứ đều khép kín tuần hoàn lưu chuyển như dòng nước.
- Sử dụng và thể hiện nỗ lực lưu thông khí của cơ thể (như những tiếng hét) để tạo sức mạnh nén khí và giải tỏa khí.
Khí vũ trụ

Con người sống trong vũ trụ sinh hoạt và chuyển động đều có tương quan đến vũ trụ, nếu thuận theo vũ trụ và khí từ vũ trụ thì sẽ lớn mạnh, còn ngược lại sẽ bị hủy hoại. Võ thuật lợi dụng đặc tính này để tạo ra các hình thức luyện tập nhằm nâng cao thể trạng như nội công, khí công, hấp pháp v.v.

3/. Triết học phương Đông với võ thuật: Võ thuật là một bộ môn văn hóa đặc trưng gắn liền với triết học. Các võ sư đã đúc kết bằng câu nói nổi tiếng: "đằng sau võ học là triết học". Các bộ môn võ học phương Đông đều dựa trên nền tảng các nguyên lý triết học:

- Âm dương: Âm dương là hai mặt quan hệ đối lập nhưng hỗ trợ nhau, võ thuật lấy bản thân người tấn công và người phòng thủ làm hai mặt này. Để đạt đến mục đích công phá cao nhất thì phải đẩy một mặt đặc tính lên cao nhằm lấn át mặt còn lại.

- Ngũ hành: Ngũ hành là quy luật hậu thiên tương ứng với bản chất con người, để nâng cao hiệu quả phải biết nâng cao mặt yếu và trấn áp sự thái quá. Dựa trên ngũ hành các quy luật võ thuật tạo ra sự bổ khuyết cho nhau cũng như sự quấy rối bản chất nhau.

- Bát quái: Bát quái như một sự phát triển cao hơn của âm dương, nó thể hiện chu kỳ hoàn chỉnh xoay vần của tạo hóa. Tuân theo bát quái để chuyển động cũng là tạo ra một chu trình sinh hóa của tự nhiên, lúc đó mọi vấn đề còn lại sẽ phụ thuộc vào kẻ điều khiển chứ không bị ảnh hưởng nhiều bởi xung quanh.

- Cửu cung: Là một biến thiên của bát quái khi thêm trung cung, tạo ra chỉnh thể tương ứng với quy luật vận hành của con người. Đây là một kiến tạo nhằm đáp ứng cho nhu cầu vận động của một số lượng người nhiều, hầu như ngày nay không còn được ứng dụng mấy (ví dụ như biểu diễn tập thể hàng ngàn người)

4/. Đông y với võ thuật

Luyện tập sơ khai võ thuật thì không cần chú trọng đến bản chất, các phương pháp chữa trị khi biến chứng xẩy ra hoặc phản ứng của cơ thể với quá trình luyện tập. Khi luyện tập những thứ dễ bị lệch lạc hay khó thì các phương pháp thăm dò, theo dõi biến chuyển là một trong những trọng tâm của quá trình luyện tập.

- Kinh, mạch, lạc :

+ Kinh là 12 đường trực hành liên hệ trực tiếp đến tạng phủ. Sự vận hành khí của võ thuật tuân thủ chặt chẽ theo sự chuyển động của các đường kinh.
+ Mạch là 8 đường hay còn gọi là bát mạch như tám đại dương để khí từ các kinh đổ vào. Đây là những nơi được chú ý đến nhiều nhất trong võ thuật, hầu hết các hành giả luyện tập đều cố khai thông chúng.
+ Lạc gồm 15 đường chạy lẫn trong các kinh âm và dương nối các đường kinh với nhau. Những lạc nhỏ là tôn lạc, phù lạc chạy khắp thân thể. Là phần phải thông qua để đạt đến vòng Đại Chu Thiên hoàn chỉnh.

[B]- Huyệt đạo: Huyệt đạo là những điểm có khí tụ lại lớn, thường là những điểm giao nhau của nhiều đường kinh mạch.[/B

Một số huyệt đạo chính

Dựa trên các khái niệm khí huyết lưu chuyển trên võ thuật cho ra đời hai vòng lớn là Tiểu chu thiên và Đại chu thiên.

Huyệt đạo là những điểm nhạy cảm trên thân thể, theo đó người dụng võ có thể tấn công vào các huyệt đạo để gia tăng tính sát thương của đòn thế. Khi bị tấn công vào huyệt đạo, người chịu đòn có thể có những phản ứng rất đặc biệt: đau đớn dữ dội, chấn thương nặng, bất tỉnh, chết. Huyệt đạo trong võ thuật cũng gắn trực tiếp với các phương pháp cứu chữa người bị chấn thương, bệnh tật. Theo các võ sư, cơ thể có 108 huyệt đánh và 108 huyệt chữa trị, lại có 12 huyệt có thể đánh hẹn giờ chết. Các võ sư thường truyền dạy không chỉ phương thức tấn công huyệt đạo mà cả các phương pháp chữa trị bằng huyệt đạo như bấm huyệt, xoa bóp, châm cứu. Tuy nhiên, biết được vị trí huyệt đạo đã khó, biết được cần tác động bằng phương thức nào và độ sâu của đòn đánh đến đâu để đạt được hiệu quả tính cao nhất còn khó hơn. Bởi vậy, điểm huyệt và giải huyệt chưa bao giờ được truyền dạy một cách phổ thông, quảng bá cho tất cả các môn đồ của võ phái, do đó theo thời gian những tinh hoa này không tránh khỏi mai một và thất truyền.

IV - Võ thuật và các bộ môn nghệ thuật

1/. Điện ảnh

Điện ảnh Trung Hoa có đặc điểm thường hay gắn với quá trình lịch sử của họ. Đặc biệt, phim ảnh của Hồng Kông vào những năm đầu của thập kỷ 1960 thường tập trung khai thác tối đa các sự kiện lịch sử như sự kiện 14 vị nữ anh hùng con dâu và cháu dâu của Dương Nghiệp, một vị đại tướng nổi danh thời Bắc Tống giúp Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn bình định các tộc hung nô phía bắc Trung Hoa, đã xuất chinh thay cho gia đình chồng giúp triều đình chinh phục các cuộc xâm lăng của người Hồ phía bắc biên cương, bộ phim này rất nổi tiếng với tựa đề Thập Tứ Nữ Anh Hào.

Sau này Trung Hoa Đại Lục có làm lại bộ phim dài tập này kể lại toàn bộ câu chuyện dưới tựa phim khác là Dương Gia Tướng đã được công chiếu trên màn hình đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Hoặc như các bộ phim sau này thường tập trung vào các nhân vật lịch sử, đôi khi chỉ là hư cấu, như các nhân vật trong Thủy Hử truyện của Thi Nại Am kể về cuộc khởi nghĩa nông dân thời Bắc Tống của các vị anh hùng Lương Sơn Bạc như Võ Tòng, Tống Giang, Lâm Xung, ... với những sự tích hào hiệp cứu khổ dân lành.

Các hãng phim Hồng Kông rất nổi tiếng từ những năm của thập kỷ 1960 cho đến nay chuyên làm các loại phim chuyển thể tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa cổ đại có thể kể ra như hãng Golden Harvest (hãng Gia Hòa) đã từng làm cuốn phim Đường Sơn Đại Huynh (Big Boss) là cuốn phim quyền cước đầu tiên của Lý Tiểu Long (Bruce Lee), hãng phim truyền hình TVB, ATV, ..., trong đó nổi tiếng nhất và có nhiều phim hay nhất phải kể đến là hãng TVB kể trên, hãng Shaw Brothers (hãng Thiệu Thị) có những phim rất đặc sắc mà sau này ít có hãng nào vượt qua được.

Điện ảnh Đài Loan cũng tập trung khai thác mảng đề tài lịch sử khá nhiều với những bộ phim về các nhân vật lịch sử như Quan Công Đại Đao kể về Quan Vũ một nhân vật thời Tam Quốc với nghĩa khí can trường anh hùng trung liệt, Bao Công một vị quan thanh liêm thời Bắc Tống với 43 kỳ án là phim dài tập với nhân vật như Trương Long, Triệu Hổ, Công Tôn Thắng quân sư, Triển Chiêu (Triển Hộ Vệ) do diễn viên xuất sắc Hà Gia Kính thủ diễn mà cho đến nay chưa có ai qua được anh trong vai này. ...


Nguồn gốc của các chủ đề phim anh hùng lịch sử Trung Hoa có thể nói là có nguồn gốc từ Kinh kịch chuyển thể sang. Kinh kịch là một loại ca kịch cổ Trung Hoa mà trong đó thường hay có những màn biểu diễn võ thuật các phái võ truyền thống Trung Hoa cổ truyền.

Đa phần các diễn viên điện ảnh của Trung Hoa sau này đều đã từng trải qua các chương trình huấn luyện về Kinh kịch, thậm chí những võ sĩ hay huấn luyện viên, võ sư thật sự khi tham gia đóng phim cũng bị buộc phải trải qua một vài khóa huấn luyện về Kinh kịch như diễn viên vận động viên Wushu Lý Liên Kiệt, Chân Tử Đan, Triệu Văn Trác, Ngô Kinh, ...

Võ thuật và các bộ môn nghệ thuật sân khấu, điện ảnh Trung Hoa gắn bó với nhau từ rất lâu, nhưng hầu như chỉ bắt đầu phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của Lý Tiểu Long trong loạt phim quyền cước do anh thủ vai diễn viên chính như Thanh Phong Hiệp, Đường Sơn Đại Huynh, Tinh Võ Môn, Long Tranh Hổ Đấu, Mãnh Long Quá Giang, Tử Vong Du Hí. Sau anh, rất nhiều diễn viên, võ sĩ đã tham gia diễn xuất như Khương Đại Vệ, Địch Long, La Liệt, Vương Vũ, Trần Tinh, Trần Quang Thái, Phó Thanh, ... là những diễn viên nổi tiếng của Hồng Kông vào những năm đầu thập kỷ 1970, sau này còn có thêm Thành Long (Jackie Chan), Hồng Kim Bảo, Quan Chi Lâm, Hà Gia Kính, Lý Liên Kiệt (Jet Li), Triệu Văn Trác, Chân Tử Đan (còn gọi là Chung Tử Đơn), Phàn Thiếu Hoàng, Ngô Kinh, Châu Nhuận Phát, với loạt phim về Hồng Hy Quan và Phương Thế Ngọc, Nam Thiếu Lâm, Hoàng Phi Hồng, Hoắc Nguyên Giáp, Nghiêm Vịnh Xuân và Vịnh Xuân Quyền, Hồng Gia Quyền, v.v.

Dòng "phim chưởng" nhiều tập một thời phát triển mạnh mẽ từ những năm cuối của thập kỷ 1960 ở Hồng Kông và các nước trong khu vực Đông Nam Á hiện đã dần nhường chỗ cho sự xuất hiện của những phim một tập được phương Tây đánh giá cao như phim Anh hùng (Heroes), Ngọa Hổ Tàng Long, Thập diện mai phục, Kungfu, v.v.

2/. Vũ đạo (Trung Quốc)

Vũ đạo hay còn gọi chính xác đầy đủ là nghệ thuật múa Trung Hoa Cổ có từ thời rất xa xưa trong đời sống sinh hoạt dân gian ở Trung Quốc cổ đại. Nghệ thuật múa này ban đầu là để phục vụ các sinh hoạt trong lao động sau đó được dùng trong các nghi lễ truyền thống trong dân gian và cả trong các nghi lễ tôn giáo.

Múa cổ đại có hai phần gọi là vu vũ và nhạc vũ. Vu tức là bà đồng (đồng cốt nữ được gọi là vu, đồng cốt nam được gọi là hịch), có bổn phận cúng tế cầu đảo. Từ thời nhà Thương đến thời nhà Chu, một số Vu có địa vị cao và được đánh giá quan trọng trong triều đình. Do vậy vu vũ chính là một hình thức vũ đạo tôn giáo của các Vu khi cúng bái cầu đảo Thượng đế Ngọc hoàng hay cúng tế sau này tại các địa phương. Nhạc vũ lại do nô lệ biểu diễn, chủ yếu để phục vụ giải trí cho giai cấp quí tộc và các đại thần, tướng sĩ trong chốn cung đình.

Đến đầu thời nhà Tây Chu, lễ và nhạc được qui định thành kinh sách. Nhạc vũ được chỉnh lý lại trở thành nhã nhạc đầy tính chất đặc thù cung đình, trong khi vũ đạo của giới nô lệ trước đây lại được nâng cao đặc biệt. Cuối thời Tây Chu, vương thất nhà Chu suy yếu, nhã nhạc đã mất dần tác dụng khống chế của nó trong sinh hoạt chốn cung đình chỉ dành cho giai cấp quí tộc và quan lại địa chủ phong kiến. Lúc này, Nhạc và vũ đạo trong dân gian đã được khích lệ phát triển mạnh mẽ thay thế cho nhã nhạc thuần túy của sinh hoạt cung đình.

Vũ đạo Trung Quốc cho đến thời nhà Tần và nhà Hán có thể được phân làm hai giai đoạn, bắt đầu từ thời nhà Tống để làm mốc. Từ thời nhà Tần và nhà Hán đến thời nhà Tống, vũ đạo lúc đó chủ yếu được xem là một loại hình nghệ thuật để biểu diễn trong các sinh hoạt văn hoá, giao tế, và yến tiệc của giới quý tộc. Vũ đạo hưng thịnh nhất vào thời nhà Hán và nhà Đường. Thời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán), triều đình thiết lập một cơ quan chuyên trách để quản lý và chỉnh lý về âm nhạc và vũ đạo được gọi là Nhạc phủ. Có nhiều gia đình quý tộc và quan lại nuôi các nghệ nhân vũ đạo.

Vào thời nhà Ngụy-Tấn và Nam Bắc Triều phân tranh, khu vực miền nam Trung Quốc trên cơ sở kế thừa âm nhạc của thời nhà Hán đã phát triển một thể loại vũ đạo mới được gọi là nhã vũ và tạp vũ. Nhã vũ được dùng để phục vụ các sinh hoạt tôn giáo, và tạp vũ được dùng để phục vụ cho toàn thể cộng đồng trong các kỳ hội hè yến tiệc hay các sinh hoạt văn hóa và lễ hội truyền thống trong đời sống dân gian lúc đó. Trong khi đó, các khu vực thuộc miền bắc Trung Quốc lại bị người Hồ cai trị, do đó hiển nhiên rằng vũ đạo mang đậm sắc thái và đường nét sinh hoạt văn hóa của các bộ tộc người Hồ. Các thể loại âm nhạc của dân gian Ấn Độ và vùng Tây Vực (Vân nam) cho đến khu Thiên Sơn thịnh hành cả cung đình lẫn dân gian.

Đầu thời nhà Tùy, nhã nhạc được chỉnh đốn lại toàn bộ, trong đó pha trộn phong cách các thể loại cổ nhạc của các dòng nhạc Nam Triều thuộc miền nam Trung Hoa với các thể loại nhạc Hồ vũ (vũ đạo của các bộ tộc người Hồ) của Bắc Triều thịnh hành ở miền bắc Trung Hoa. Đời nhà Đường đã kế thừa toàn bộ loại nhã nhạc đó rồi du nhập thêm các loại vũ đạo của khu vực Ba Tư Lưỡng Hà (là Iraque và Iran ngày nay) để tổ chức phân làm hai nhóm biểu diễn phục vụ : nhóm múa ngồi và nhóm múa đứng. Nhóm múa ngồi sẽ biểu diễn trên thềm cung điện, nhóm múa đứng biểu diễn ở phía dưới thềm cung điện. Thời nhà Đường là giai đoạn đỉnh cao của sự dung hợp các nền văn hoá, âm nhạc, vũ đạo của các dân tộc và các địa phương trong khung cảnh mở rộng giao lưu văn hóa giữa các bộ tộc ở khắp miền nam bắc Trung Hoa cho đến vùng ngoài biên cương châu thổ Trung Nguyên.

Từ đời nhà Tống trở về sau, vũ đạo Trung Quốc đã được phát triển hoàn toàn khác. Vũ đạo với vị thế độc lập đã bị suy yếu đi và biến cách thành một thể loại mới hơn và đa phong cách thể hiện trong sự pha trộn thêm vào nhiều hình thức hí khúc, kể chuyện, ngâm nga v.v... và đã được phát triển rất mạnh. Những tiết mục độc lập bên ngoài vũ đạo có từ đời nhà Đường đã trở nên biến thái và hòa nhập vào các thể loại ca vũ kịch hoặc tạp kỹ (xiếc, nhào lộn). Vũ đạo chuyên nghiệp đã suy thoái tại cung đình còn vũ đạo dân gian thì thịnh hành vào thời này.

Vũ đạo sau này có một vị thế quan trọng trong Kinh kịch, một thể loại nghệ thuật sân khấu ca kịch cổ rất thịnh hành từ cuối triều nhà Thanh cho đến nay.

Vũ đạo có một vai trò đặc biệt trong các bộ môn quyền thuật thuộc miền Bắc Trung Hoa, nếu ta quan sát kỹ các tư thế, điệu bộ, phong cách thể hiện và thần thái diễn tập trong nghệ thuật múa nhà Đường qua bộ phim truyền hình nhiều tập Tây Du Ký ở phần cuối phim do Trung Quốc sản xuất với vai Tôn Ngộ Không do Lục Tiểu Linh Đồng thủ vai diễn, ta sẽ thấy rất nhiều động tác dễ nhận ra trong một số bộ môn quyền thuật bắc Trung Hoa sau này. Các động tác như chạy lòng vòng thật nhanh hay chạy thật xa và dài, bay nhảy, uốn éo và lắc lư nghiêng ngả của thân pháp trong kỹ thuật của Trường Quyền có thể là do ảnh hưởng từ các điệu múa và được cách điệu lên trong các chiêu thức quyền thuật làm cho các bộ môn quyền thuật thuộc miền bắc Trung Hoa (sau này được tích hợp thành các bộ môn quyền Bắc Thiếu Lâm) trở nên có một phong cách hoàn toàn khác biệt các phái võ miền nam Trung Hoa, nhất là các bộ môn quyền thuật của Nam Thiếu Lâm. Các tư thế và chiêu thức của các môn quyền Bắc Thiếu Lâm trông rất lả lướt, phong cách hoa mỹ bay bổng hơn các dòng quyền thuật Nam Thiếu Lâm rất nhiều trong khi các tư thế và chiêu thức của quyền thuật ở Nam Thiếu Lâm trông rất thô bạo và dũng mãnh, ngắn gọn và chặt chẽ, chú trọng thực dụng và hiếm khi nhảy nhót.

V - Một số nền võ học trên thế giới

1/. Trung Quốc

Xem chi tiết Các Dòng Quyền Thuật Nam Bắc Trung Hoa tại Võ Thiếu Lâm
Trước kia trong đồng đạo võ lâm thường tôn vinh "bát đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành, Hoa Sơn, Toàn Chân) hoặc "thất đại môn phái" (Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, Không Động, Thanh Thành, Hoa Sơn) võ thuật Trung Hoa, trong đó Võ Thiếu Lâm được đề cao là ngôi sao Bắc đẩu. Gần đây nhất, trong cuốn Võ thuật thần kỳ của Trịnh Cần và Điền Vân Thanh, Trung Quốc, bản dịch được Nhà xuất bản Hà Nội, H. 1996 xuất bản, các tác giả khẳng định Trung Hoa bao gồm không dưới 500 võ phái khác nhau, trong đó nổi tiếng nhất là những phái chính:

- Tượng Hình Quyền
- Thái Cực Quyền
- Võ Đang Quyền
- Nội Gia Quyền
- Bát Quái chưởng
... ... ...

- Thiếu Lâm Quyền
- Trường Quyền (Bắc Quyền) (Bắc Thiếu Lâm)
- Tra Quyền
- Hóa Quyền
- Hoa Quyền
- Pháo Quyền
- Trốc Cước
- Đàm Thoái
- Phách Quải Quyền
- Thông Bối Quyền
- Phiên tử Quyền
- Bát Cực Quyền
- Yến Thanh Quyền còn gọi là Mê Tông Quyền hay Mê Tung Quyền
- Hình Ý Quyền còn gọi là Lục Hợp Quyền (Phái Thiếu Lâm Vy Đà)
- Ðường Lang Quyền
- Ưng Trảo Quyền
... ... ...


- Nam Quyền (Nam Thiếu Lâm)
- Hồng Gia Quyền
- Bạch Hạc Quyền
- Bạch Mi Quyền
- Vịnh Xuân Quyền
- Phật Gia Quyền
- Thái Lý Phật
- Châu Gia Quyền
... ...

Các bộ môn quyền thuật trên trong khoảng 500 võ phái của khắp miền Nam Bắc Trung Hoa chính là xuất phát từ trong dân gian sau này được các môn đồ của Thiếu Lâm tích hợp vào hệ thống Thiếu Lâm Quyền và biến nó thành những hệ phái Bắc Thiếu Lâm và Nam Thiếu Lâm. Do vậy nói Bồ Đề Đạt Ma là sáng tổ ra võ Thiếu Lâm và võ thuật Trung Hoa như nhiều võ sư xác tín liệu có chính xác và công bằng không trong khi võ Thiếu Lâm là một sự pha trộn và tích hợp giữa các bộ môn quyền thuật dân gian ở Trung Hoa và Ấn Độ. Chùa Thiếu Lâm và võ Thiếu Lâm thật ra chỉ có công tích hợp và hệ thống lại bởi các môn đồ xuất sắc của Thiếu Lâm Tự.

Các bộ môn quyền thuật của miền bắc Trung Hoa như Hình Ý Quyền, Bát Cực Quyền, Thông Bối Quyền, Mê Tung Quyền, Phách Quải Quyền, ... đều có một tên chung là Trường Quyền. Các bộ môn quyền thuật của Nam Thiếu Lâm như Ngũ Đại Danh Gia Quyền Thuật Nam Thiếu Lâm : Hồng gia (Hung gar), Lưu gia (Liu Gar), Lý Gia (Li Gar), Mạc Gia (Mo Gar) và Thái Gia (Choy Gar), Bạch Mi Quyền (còn gọi là Thiếu Lâm Bạch Mi), Thiếu Lâm Vịnh Xuân Quyền gọi tắt là Vịnh Xuân Quyền ... được gọi tất cả bằng một tên chung là Nam Quyền.

Do vậy cũng nên lưu ý rằng danh từ Trường Quyền không phải là một môn phái mà là khái niệm chỉ tất cả các bộ môn quyền thuật miền bắc Trung Hoa (sau này gọi là Bắc Thiếu Lâm), cũng như danh từ Nam Quyền không phải là một môn phái mà là khái niệm chỉ tất cả các bộ môn quyền thuật miền nam Trung Hoa (là Nam Thiếu Lâm.

Sau này người Trung Hoa thường có câu Thiên Hạ Công Phu Xuất Thiếu Lâm (tất cả các phái võ và các bộ môn quyền thuật nam bắc Trung Hoa đều có nguồn gốc từ Thiếu Lâm).

Câu nói này chỉ đúng một nửa và cũng cho thấy rằng võ Thiếu Lâm không phải là cái nôi xuất xứ tất cả các phái võ khác mà phải nói ngược lại rằng nó (võ Thiếu Lâm) đã tích hợp các dòng võ khác và làm cho chính nó trở nên phong phú hơn và đa phong cách thể hiện. Võ Thiếu Lâm và võ thuật Trung Hoa nói chung là một công trình sáng tác của các thế hệ võ thuật ở Trung Hoa, trong đó có các môn đồ của chùa Thiếu Lâm. Bằng không câu nói trên sẽ dẫn đến vô số điều ngộ nhận hơn nữa về sau.

2/. Việt Nam


Một kỹ thuật đá trong môn võ lâm Tân Khánh Bà Trà.

Một đòn đánh trong môn Việt Võ Đạo.

Bên cạnh những nét tương đồng với nền võ thuật rộng lớn của Trung Hoa do ảnh hưởng từ giao lưu văn hóa, các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên "Võ cổ truyền" vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng: thứ nhất, sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú; thứ hai: bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn), khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay; thứ ba, bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản); thứ tư, kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa hình, nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người; thứ năm, tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực" - dựa vào sức lực đối phương để triệt hạt đối phương v.v. Danh sách chưa đầy đủ các phái võ Việt Nam bao gồm:

- Bạch Hổ võ phái
- Bạch Long Chiến Đạo
- Bình Định gia
- Việt Võ Đạo
- Nhất Nam
- Lam Sơn căn bản
- Lâm Sơn Động
- Phật gia quyền
- Sa Long Cương
- Không Động
- Long Hổ Không Hồng
- Hoa Quyền
- Lam Sơn võ đạo
- Nam Hồng Sơn
- Nam Huỳnh Đạo
- Nam Tông
- môn VO THUAT (Việt Nam)
- Vĩnh Xuân Quyền (Việt Nam)
- Phạm Gia võ phái
- Quán khí đạo
- Thăng Long võ đạo
- Thiên Môn Đạo
- Tân Khánh Bà Trà
- Thất Sơn Thần Quyền
- Thiếu Sơn Phật Gia
- Thiếu Lâm Long Phi
- Thiếu Lâm Bắc Truyền Thiên Mục Sơn
- Thiếu Lâm Nội Gia Quyền
- Thiếu Lâm Bắc Phái Mai Hãn
- Võ Việt Nam

3/. Nhật Bản

Nhật Bản có truyền thống thượng võ lâu đời do những cuộc nội chiến liên miên, mặc dù quốc gia này trong suốt trường kỳ lịch sử chưa hề bị xâm lược và đô hộ bởi ngoại bang ngoại trừ giai đoạn ngắn ngủi các samurai phải đương đầu với đội thủy binh hùng mạnh của Mông Cổ. Nhiều hệ phái võ thuật Nhật Bản đã lừng danh thế giới như:

- Jujutsu
- Judo
- Aikido
- Koppo
- Ninjutsu
- Sumo
- Karate
- Shooto
- Kendo
- Kenjutsu
- Iaijutsu
- Sōjutsu
- Naginatajutsu
- Kyudo
- Shorinji Kempo

4/. Triều Tiên

- Happkido (Kyuc-too-ki) môn võ tổng hợp, khai thác những ưu điểm của Taekwondo, Karatedo, Kendo, Aikido, Boxing thành một dạng võ tự vệ.
- Taekwondo (Đài quyền đạo hay Túc quyền đạo) môn phái đặc trưng với sự nhấn mạnh đòn chân và tính chất thể thao của bộ môn.
- Tangsudo (Đường thủ đạo)

5/. Ấn Độ

Trong khi các võ phái tại các nước châu Á khác (Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam v.v.) thường thừa nhận ảnh hưởng từ võ thuật Trung Hoa, thì giới võ lâm Trung Hoa lại thừa nhận võ thuật của mình nguyên khởi từ Ấn Độ

- Kalaripayattu: hệ phái võ thuật tương truyền đã có lịch sử rất lâu đời hàng vạn năm.
- Vajra Mushti
- Varma Kalai
- Kuttu Varisai
- Silambam
- Adithada
- Thang Ta
- Gatka

6/. Myanma

Võ của Myanma thường được gọi chung là Thaing (bao gồm cả võ tay không và binh khí), cũng được gọi là Bando (tuy nhiên Bando lại còn có tên là một bộ môn riêng trong nền võ Myanma: môn nhu quyền), cho nên Thaing là tên gọi võ thuật bao quát và chuẩn xác nhất đối với đất nước này.

- Bando (nhu quyền): Là trường phái gắn chặt với các đặc điểm tấn pháp, thân pháp, kỹ thuật phòng thủ và tránh né, các thế tấn công thường tượng hình theo các loài thú: trư công (lợn), ngưu công (trâu), độc xà công (rắn độc), lục xà công (rắn lục), lộc công (hươu), hầu công (khỉ), ưng công (chim ưng), báo công (báo), hổ công (hổ), mãng xà công (rắn).
- Leithwei (cương quyền), còn gọi là Miến quyền (Burmese Boxing)
- Naban (võ vật), chỉ xuất hiện trong các bộ tộc người Chin và Kachin thuộc vùng Himalaya.
- Banshay (binh khí), ba loại cơ bản là côn, thương và kiếm.

7/. Thái Lan


Muay Thai.

- Muay Thai(Quyền Thái)
- Muay Boran
- Krabi Krabong

8/. Lào

- Muay Lao
- Ling Lom

9/. Campuchia

- Bokator
- Pradal Serey

10/. Philippines

- Eskrima

11/. Indonesia

- Pencak-Silat

12/. Malaysia

- Silat
- Tomoi

13/. Pháp

- Savate
- La canne
- Lutta corsa

14/. Đức

- Kampfringen

15/. Nga

- Systema
- Sambo

16/. Hy Lạp

- Pankration
- Quyền Anh

17/. Gruzia

- Khridoli

18/. Israel

- Krav Maga

19/. Hoa Kỳ

- Close Quarters Combat

20/. Brasil


Võ Capoera, Brasil

- Capoeira
- Brazilian Jiu-Jitsu

VI - Danh nhân võ thuật[COLOR=blue]

1/. Trung Quốc

- Hoàng Phi Hồng
- Lý Liên Kiệt
- Lý Tiểu Long
- Trương Tam Phong
- Thích Kế Quang
- Hồng Hy Quan
- Phương Thế Ngọc
- Chí Thiện
- Ngũ Mai
- Nghiêm Vịnh Xuân

2/. Nhật

- Kano Jigoro
- Miyamoto Musashi
- Ueshiba Morihei
- Oyama Masutatsu
- Funakoshi Gichin
- Gogen Yamaguchi

3/. Việt Nam

- Ngô Xuân Bính
- Hà Châu
- Phạm Cô Gia
- Hồ Hoa Huệ
- Nguyễn Lộc
- Tô Tử Quang
- Nguyễn Công Tốt
- Nguyễn Văn Thinh
- Hồ Văn Lành
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Đức Mộc


Sưu Tầm