+ Trả Lời Ðề Tài
kết quả từ 1 tới 10 trên 10
  1. #1
    Tham gia ngày
    Apr 2007
    Đến từ
    Vovinam World News
    Bài gởi
    3,406
    Thanks
    117
    Thanked 155 Times in 150 Posts
    Blog Entries
    1

    Default Anh Hùng Nguyễn Trung Trực

    Nguyễn Trung Trực

    Người Khí Phách Một Ðời Anh Hùng

    (Theo Ly Châu Lý Minh Hào)

    Ðến nay, phần tài liệu để tìm hiểu về tiểu sử, thân thế ông Nguyễn Trung Trực cũng còn tản lạc và chưa đầy đủ. Lý do dễ hiểu là chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng sách lược "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc," ngay cả phần mộ chôn cất thân xác vị anh hùng chính người địa phương cũng chưa tường tận.

    Theo một nguồn sử liệu, ông Nguyễn Trung Trực sinh trưởng tại một xóm chài lưới có tên là Xóm Nghề, Bến Lức, Long An. Từ thuở thiếu thời, thường được gọi thân mật là "Cậu Năm Lịch" hoặc "anh chài Lịch" đã ham học võ, lớn lên nổi tiếng là trang thanh niên tuấn tú, võ nghệ cao cường, hào khí hun đúc tâm can, thiên khiếu quân sự thăng hoa phát tiết. Khởi đầu sự nghiệp, ông tham gia lực lượng kháng chiến của Quản Cơ Trương Công Ðịnh và được sung chức Quản Binh, chỉ huy nghĩa binh hoạt động ở vùng Cần Ðước, Cần Giuộc thuộc Long An. Cũng cần trình bày thêm, vì nhận sự phong quan của triều đình thời vua Tự Ðức, Trương Công Ðịnh nhiều phen đã phải phụng mệnh vua, và theo lệnh triều đình Huế đang trong thời kỳ thương thuyết với người Pháp. Tình thế luẩn quẩn "khi đánh, khi đàm" đã làm suy giảm đáng kể tiềm lực kháng chiến và nhuệ khí nghĩa quân. Trước khi nói về sự nghiệp kháng chiến của vị anh hùng họ Nguyễn, qua hai chiến công lẫy lừng là "Hỏa Nhựt Tảo Thuyền" và "Ðồ Kiên Giang Lũy,".

    Trong khí thế chống giặc ngoại xâm của sĩ phu và dân chúng miền Nam, ông Nguyễn Trung Trực đã ráo riết bố trí quân bị, tung ra những trận đánh du kích tại Tân An, vùng đất "mở đường" cho sự nghiệp thiên niên sử xanh của ông về sau.

    Ðịa bàn hoạt động của lực lượng kháng chiến trong gần ba năm từ 1860 đến 1862 là vùng Tân An, Ðịnh Tường, Biên Hòa. Các địa danh Thủ Thừa, Bến Lức, Bình Trinh, Nhựt Tảo (Tân An); Vũng Gù (Ðịnh Tường ); Tân Uyên, Phước Lý, Long Thành (Biên Hòa) đã khiến tiếng tăm ông lẫy lừng. Trận đánh hỏa công đốt tàu chiến Pháp Espérance trên sông Nhựt Tảo khiến đất trời cũng muốn nổ tung: Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa. Theo một nguồn sử liệu dân gian nhiều người biết khi tả về chiến tích Hỏa Nhựt Tảo Thuyền của ông Nguyễn Trung Trực thì làng Nhật Tảo nằm trên một vùng đồng ruộng bao la, mới sáng tinh sương đã nhìn thấy ánh mặt trời nên được gọi là Nhựt Tảo, nghĩa là "mặt trời mọc sớm". Giữa thế kỷ thứ 19, Nhựt Tảo là vùng đất mới được ông Hồ Văn Chương đến khai phá lập nghiệp theo chương trình khai hoang của triều Nguyễn. Nhờ quy tụ được đông dân cư lập thành thôn ấp, ông Hồ Văn Chương được triều đình Nguyễn phong cho chức Suất Ðội Trưởng, con cháu kế truyền làm "chủ chợ qua việc thu thuế chợ lấy tiền làm ngân sách địa phương". Dòng dõi họ Hồ thống lãnh cả vùng và đều là hương chức địa phương. Lúc bấy giờ, ông Hồ Quang Minh làm cai Tổng, tuy hợp tác với chính quyền Pháp ngoài mặt nhưng vẫn căm thù giặc. Cảm khái tấm lòng ái quốc của ông Nguyễn Trung Trực, gia đình ông Cai Tổng đã mạnh dạn hợp tác với nghĩa quân, lập kế đồ đánh phá lực lượng quân Pháp. Mục tiêu là chiến thuyền Espérance đóng án ngữ trên sông Vàm Cỏ Ðông thuộc làng Nhựt Tảo, một thủy lộ và một địa điểm vô cùng xung yếu về mặt quân sự. Chiến thuyền Espérance được coi như một "căn cứ nổi" rất lợi hại trên nhiều mặt: đóng vai trò một thành lũy bố phòng; một pháo đài để tấn công và yểm trợ; một phương tiện di động để điều động và vận chuyển binh lính, quân nhu, lại được sử dụng như một đơn vị "dưỡng quân" nữa. Chiến thuyền Espérance đã đóng một vai trò "chiếm đóng" và "bình định" cả một vùng địa phương rộng lớn. Vì tầm quan trọng về mặt chiến thuật, chiến lược như vậy, cho nên bằng mọi giá, lực lượng nghĩa quân phải phá chiến thuyền ấy cho bằng được. Ðể lấy lòng tin của quân Pháp, Cai Tổng Hồ Quang Minh tỏ sự "cúc cung tận tụy" ra mặt, tích cực cộng tác với Pháp. Ðược thuyền trưởng là Trung úy Parfait tin cẩn, một ngày nọ Cai Tổng Hồ Quang Minh cùng Hương Lý Nhựt Tảo đến "bái kiến" trung úy Parfait và "thăm" chiến thuyền. Ông nêu ý kiến, tàu quá lớn và cao, lại thêm bọc sắt, trời miền Nam quá nóng nực, dễ gây bệnh thời khí, nên làm mái lá dừa che cho mát. "Chúa tàu" khen phải, cho thực hiện công tác ngay. Cai Tổng Hồ Quang Minh xin lãnh công tác này và giới thiệu "ông Năm thợ mộc" lên tàu dựng cột, lợp mái. Ông thợ mộc này chính là Nguyễn Trung Trực. Em trai ông Cai Tổng là Hồ Quang Chiêu thì hợp tác cùng ông Nguyễn Trung Trực nghiên cứu kế hoạch và chuẩn bị trận đồ "chiếm và đốt" tàu. Nhờ những ngày đóng vai thợ mộc trên tàu. Ông Năm đã am tường tình hình: quân số, võ khí, cách bố phòng, thói quen của vị thuyền trưởng và các sĩ quan, cũng như giờ giấc đổi "ca" và đi "càn" (tảo thanh) các vùng phụ cận. Bọn quân Pháp rất thích thú với mái nhà lợp bằng lá dừa trên tàu, vừa "ngồ ngộ" lại vừa khỏe người", ban ngày nắng chang chang khỏi phải xuống hầm tàu.

    Giờ lịch sử đã điểm, sáng ngày 11 tháng 12 năm 1861 (nhằm tháng 11 năm Tân Dậu), một toán nghĩa quân làm kế nghi binh kéo về Kênh Hóng thuộc xã Bình Lăng, gióng trống khua chiêng để nhử bọn thủy binh Pháp. Viên sĩ quan chỉ huy hôm đó quả mắc mưu, bèn cắt cử một đại bộ binh lính, rời tàu để đi càn quét nghiã quân gây loạn. Vào lúc gần trưa, lính Pháp trên tàu chỉ còn lại một số nhỏ. Phía nghĩa quân được đều động đi phá tàu dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn Trung Trực, cả nam lẫn nữ đi trên hai chiếc ghe giả danh và ngụy trang là "đám cưới quê đi rước dâu". Hai ghe ghé sát tàu xin pẹc-mi (giấy phép) di chuyển sang bên kia địa phương để rước dâu. Ðóng vai chú rể là Nguyễn Trung Trực, trong người thủ sẵn một chiếc búa thầu nặng năm cân ta (khoảng 3 ký lô). Nhơn lúc bất ngờ, ông rút búa nện chết tên lính gác tàu mà "chú rể vừa "múa tay, múa chân" năn nỉ xin giấy đi "cưới vợ". Bọn lính Pháp trở tay không kịp, không thể sử dụng súng để bắn trả nên bị tiêu diệt gần hết. Ông Hồ Quang Chiêu thì đã phục sẵn trên bờ với toán nghĩa quân và dân làng Nhựt Tảo, diệt gần trọn bọn lính Pháp đóng trên vàm đối diện với chiến thuyền đậu thả neo. Vừa chiếm xong tàu, ông Nguyễn Trung Trực hạ lệnh nổi lửa đốt tàu. Có nhiều bà con, gia đình nhà cửa cất gần nơi tàu thả neo đã tháo cả phên, vàch lá làm "mồi lửa" đốt tàu cho mau. Hơn nữa, tàu lại có mái lá lợp "ngồ ngộ" do ông "Năm thợ Mộc" cất sẵn đó, trời lại nóng bức trưa hôm đó nên lửa "bắt" rất bén! Xoay đi quay lại thì toàn bộ lực lượng Pháp, tàu chiến Espérance đã bị "xóa sổ danh bộ!". Sử sách không cho biết số mạng thuyền trưởng Parfait ra sao? Ði họp với quan đầu tỉnh hay quan toàn quyền (?) hoặc giả đi săn bắn gần đâu đó (?). Qua chiến công này, tin tức vang dội tới triều đình Huề. Vua Tự Ðức đã mật phong ông chức Ðốc Binh trước khi triều đình ký kết với người Pháp hiệp ước Nhâm Tuất 1862 vào năm sau. Thiết nghĩ, nhơn đây chúng ta cũng nên ghi một điểm son cho gia đình Cai Tổng Hồ Quang Minh.

    Ngoài ra, vào tháng năm 1862, ông Nguyễn Trung Trực còn ghi thêm một công trận nữa là tấn công và tiêu diệt một đơn vị lính Pháp trú đóng đồn tại Thủ Thừa, tỉnh Tân An.

    Sau trận Thủ Thừa, ông được thăng chức Thành Thủ Úy Hà Tiên và chiếu truyền ông phải án binh bất động để chờ ký hiệp uớc nghị hòa. Nhưng ông đã không đi nhậm chức, vẫn theo đuổi con đường kháng chiến chống Pháp. Triều đình Huế phải giáng chỉ truyền hai ông Phanh Thanh Giản và Trương Văn Uyển thuyết phục ông thêm. Nhưng rồi ông cũng không nghe theo, quyết giữ lập trường kháng Pháp bằng võ lực.

    Chương sử kháng Pháp của sĩ phu miền Nam đầy bi tráng và thật kiêu hùng được tô đậm bằng tên tuổi lẫy lừng của bốn bậc hào kiệt. Trong khoảng thời gian trước sau và nối tiếp nhau -- Trương Công Ðịnh, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương -- ba vị cùng Nguyễn Trung Trực tạo thành ”Tứ Hùng Nam Bộ” tung hoành khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh.

    Sau khi được hung tin vị cận tướng Lâm Quang Ky vì mình mà hy sinh, và mẫu thân bị bọn Pháp cầm cố, ông Nguyễn Trung Trực ruốt thắt, lòng đau vô ngần. Sau nhiều ngày đêm suy tính, lượng định tình thế và thực lực, nhận thấy không nên kéo dài thêm tình trạng tuyệt vọng, ông Nguyễn Trung Trực quyết định ra đầu hàng. Ông triệu tập nghĩa quân lại truyền:

    - Các bạn hãy tìm cách phân tán, chờ tin tôi ”chết” sau khi đánh đổi lấy sự phóng thích cho mẹ già; dân hải đảo Phú Quốc vô tội, nghĩa quân Kiên Giang kiên cường. Chừng ấy, giặc Pháp sẽ nới rộng vòng kiềm tỏa là cơ hội tốt để các bạn tùy thời tìm lấy sinh lộ hoặc nuôi lấy ý chí tiếp hành công cuộc đại nghĩa. Ðừng bao giờ các bạn nghĩ tới chuyên buông xuôi kẻ bất cộng đới thiên! Tên tuổi chúng ta mất hay còn, vinh hay nhục đều do tinh thần và hành động của mình định đoạt!

    Vừa dứt lời, tất cả nghĩa quân đều khóc, có người quỳ xuống ôm lấy chân ông xin sống chết cùng ông. Ông sai một nghĩa quân lấy dây trói ông lại nhưng không ai can tâm làm việc này. Cuối cùng, ông và một nghĩa quân từ biệt mọi người và ra đi. Trên đường đi, ông bứt vài cọng dây bông súng biển tự trói lấy để ra vẻ người ra đầu thú. Ông ngồi trên một chiếc xuồng nhỏ do người nghĩa quân đi theo chèo tới chiếc tàu Pháp đang đậu ngoài khơi.

    Pháp dùng tên Huỳnh Công Tấn, vốn quen biết ông Nguyễn Trung Trực khi còn phục vụ trong hàng ngũ nghĩa quân của ông Trương Công Ðịnh. Tấn khuyến dụ, đối đãi ông trọng hậu để mong được ông thực tâm quy thuận tân trào, nhưng ông vẫn một mực giữ khí tiết, chỉ yêu cầu Pháp sớm đem ông ra gia hình. Pháp giải ông về Sài Gòn để thẩm vấn thêm, viên Thiếu tướng hải quân Ohier hết lời dụ dỗ ông nhưng vô hiệu, cuối cùng phải đưa ông về Rạch Giá để xử tử.

    Ngày 27/10/1868, nhằm ngày 28 tháng 8 năm Mậu Thìn, Pháp đưa ông ra pháp trường tại chợ Rạch Giá để hành quyết. Ðịa điểm hành quyết ngay tại miếng đất đối diện ”chợ nhà lồng” Rạch Giá, lúc bấy giờ còn cây da cổ thụ.
    Trên miếng đất thấm máu vị anh hùng, sau đó người Pháp xây lên Nhà Giây Thép, về sau là Ty Bưu Ðiện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ thụ bị đốn đi năm 1947.

    Sáng sớm, đồng bào tỉnh nhà đã tề tựu đông đảo để chứng kiến giờ phút vĩnh biệt của người anh hùng. Cảm động nhất là bà con từ Tà Niên -- nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu -- đã mang tới những chiếc chiếu hoa cạp điều chọn lọc để trải một đoạn đường mà người anh hùng dân tộc tiến ra pháp trường để thọ án tử. Quân đao phủ hôm ấy là một người Cao Miên, thường được dân Việt gọi là ”bòn” Tưa, được người Pháp trả công cho mỗi cái đầu chém rụng một quan tiền. Tương truyền rằng trước khi hành quyết, ông được Pháp hỏi cần ân huệ chót gì không thì ông chỉ xin uống một trái dừa tươi. Uống xong, ông ngâm sang sảng một bài thơ tuyệt mệnh sau đây:

    Thư kiếm tùng nhung từ thiếu niên
    Yêu gian đảm khí hữu long tuyền
    Anh hùng nhược ngộ vô dung địa
    Báo hận thâm cừu bất đới thiên.
    Thi sĩ Ðông Hồ, một văn nhân sinh trưởng tại Hà Tiên, dịch:

    Theo việc binh nhung thuở trẻ trai
    Phong trần hăng hái tuốt gươm mài
    Anh hùng gặp phải hồi không đất
    Thù hận chang chang chẳng đội trời.
    Rồi đứng lên vén tóc gáy, nghểnh cổ bảo tên đao phủ thủ hãy chém lấy một nhát cho thật mạnh để đầu đứt lìa, lưỡi đao khỏi bị dục dặc. Theo truyền thuyết, khi lưỡi đao hạ thủ, đầu lìa khỏi cổ, nhưng ông vẫn kịp đưa hai tay hứng lấy, đặt lại trên cổ rồi cả thân và đầu mới ngã gục xuống nền đất. Cái đởm khí ấy của ông khiến ai là con người lại không kinh hoàng và cảm phục?

    Cử nhân Huỳnh Mẫn Ðạt, người Rạch Giá, nguyên Tuần phủ Hà Tiên, một sĩ phu đứng về hàng ngũ chống xâm lăng lúc bấy giờ, đã khóc vị anh hùng bất khuất bằng bài thơ chữ Hán:

    Ðiếu Nguyễn Trung Trực
    Thắng phụ nhung trường bất túc luân
    Ðồi ba chỉ trụ ức ngư dân
    Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
    Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
    Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
    Lưỡng toàn vô úy báo quân thân
    Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
    Tu sát đê đầu vị tử nhân.
    Bản dịch của Thái Bạch:

    Thắng bại chi bàn việc tướng quân
    Người chài trụ đá khúc gian truân
    Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
    Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
    Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
    Ðôi đường trọn chữ báo quân thân
    Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
    Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.
    Nghĩa khí của người xưa như thế đó!

  2. #2
    Tham gia ngày
    Apr 2007
    Đến từ
    Vovinam World News
    Bài gởi
    3,406
    Thanks
    117
    Thanked 155 Times in 150 Posts
    Blog Entries
    1

    Default

    Nguyễn Trung Trực (1837-1868)

    Anh hùng Nguyễn Trung Trực lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp tại Tân An (Long An) và Rạch Giá (Kiên Giang). Trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, ông cùng một số chiến hữu tổ chức phục kích đốt tàu L’Espérance của Pháp trên sông Vàm Nhật Tảo. Ông tiếp tục chiến đấu chống Pháp tại Gia Định, Biên Hòa. Năm 1862 ông được phong chức Lãnh Binh. Năm 1867 ông được phong chức Hà Tiên Thành Thủ Ủy giữ đất Hà Tiên. Khi Hà Tiên thất thủ, ông ra Phú Quốc lập căn cứ chống Pháp. Ông bị bắt tháng 10 năm 1868, nhưng cương quyết không đầu hàng giặc.

    Ngày 27 tháng 10 năm 1868 (28-8 Nhâm Tuất) quân Pháp đem ông ra chém tại Kiên Giang (chợ Rạch Giá). Ông hưởng dương 31 tuổi. Hiện nay tại tỉnh Kiên Giang (đền thờ tại Rạch Giá), dân chúng nhớ công ơn ông, hàng năm mở lễ hội tưởng niệm rất lớn vào các ngày 27, 28, 29 tháng 8 âm lịch. (Tại An Giang - huyện Chợ Mới, cũng có đền thờ và lễ hội.)

    Trước lúc hy sinh, anh hùng Nguyễn Trung Trực đã tuyên bố:

    - “Bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”

    - “Thế rồi lưỡi dao Đao thủ phủ chém xuống. Đầu Ngài rơi nhưng hai tay của Ngài đưa lên hứng lấy đặt ngay chỗ cũ, hai mắt của ngài vẫn trừng trừng sáng quắc làm cho ai nấy cũng phải kinh hoàng thán phục ."

    Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt điếu bài thơ nổi tiếng như sau:

    Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
    Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần
    Anh hùng cường cánh phương danh thọ
    Tu sát đê đầu úy tử nhân.


    Bản dịch:

    Lửa hồng Nhựt Tảo vang trời đất
    Gươm lóe Kiên Giang rúng quỉ thần
    Ngẩng cổ anh hùng danh thọ mãi,
    Cúi đầu thẹn chết lũ phi nhân.


    (trích từ Hùng Sử Việt)

  3. #3
    Tham gia ngày
    Feb 2008
    Đến từ
    Kiên Giang
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    4,164
    Thanks
    4
    Thanked 36 Times in 29 Posts

    Default

    anh hùng dân tôc nguyễn trung trưc sinh năm 1838 mất năm 1868 chứ ko phải 1837 đâu

  4. #4
    Tham gia ngày
    Apr 2007
    Đến từ
    Vovinam World News
    Bài gởi
    3,406
    Thanks
    117
    Thanked 155 Times in 150 Posts
    Blog Entries
    1

    Default

    Ghi theo sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, NXB Trẻ, năm 2007. Căn cứ biên bản hỏi cung ông Nguyễn Trung Trực tại khám đường Sài Gòn vào tháng 10 năm 1868, ông Trực “mới được 30 tuổi”(age’ de 30 ans), thì rất có thể ông sinh năm 1838. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật Việt Nam cho rằng ông sinh năm 1837

    Theo Bách Khoa tự điển lại ghi ông sinh năm 1939....

  5. #5
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Đến từ
    Gia Đình VOVINAM
    Bài gởi
    2,303
    Thanks
    16
    Thanked 23 Times in 17 Posts

    Default Nguyễn Trung Trực

    Nguyễn Trung Trực


    Ảnh thờ Nguyễn Trung Trực tại đền thờ chính, Rạch Giá, Việt Nam.Nguyễn Trung Trực (chữ Hán: 阮忠直;1839[2]–1868) là vị thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên Giang), gần cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ.

    Cuộc đời
    Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn, từ năm Kỷ Mùi 1859 đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên thầy dạy học của ông đặt tên hiệu cho ông là Trung Trực.

    Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng tức Thăng, mẹ là bà Lê Kim Hồng.

    Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc ngoại ô thị xã Tân An, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khoẻ mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.

    Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định. Năm 1861, nhờ lập được công lao, nên ông được triều đình phong chức Quyền sung Quản đạo” nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch.

    Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông gồm một số nhà yêu nước: Lâm Quang Ky, Hoàng Khắc Nhượng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Học, Hồ Quang v.v…

    Chiến công
    Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã tóm gọn hai chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ nổi tiếng sau:

    Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên đia
    Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
    Thái Bạch dịch:

    Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
    Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.

    Hỏa hồng Nhật Tảo

    Tượng Nguyễn Trung Trực trước đền thờ chính, Rạch Giá.Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (25 tháng 2 năm 1861), Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho (tức thành Định Tường thất thủ vào ngày 12 tháng 4 năm 1861) nên thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động. Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance(Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.

    Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Vào trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang (theo Hỏi đáp lịch sử, còn Phan Thành Tài ghi tên là Nguyễn Văn Quang) tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu này.

    Trận Nhật Tảo có 2 ý kiến khác nhau: thứ nhất ông Trực cho giả làm thuyền đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát tàu Espérance rồi đánh úp; thứ hai là ông Trực cho giả làm thuyền buôn lúa, để đánh chìm tàu. Ý kiến sau được nhiều người chấp nhận, trong đó có sự đồng thuận của một số người tác giả người Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner…

    Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát (2 lính Pháp và 3 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní) Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã ra lệnh đốt cháy nhiều nhà cửa trong thôn Nhật Tảo.

    Chiến thắng này được triều Nguyễn cho ban thưởng và ghi chép lại trong sử. Còn với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là: “một sự kiện đau đớn” làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp”.

    Và Alfred Schreiner gọi chiến thắng Nhật Tảo:

    "Đấy là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng công kích hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp”
    Ở một trang khác, tác giả nhận định:

    Cuộc đốt cháy tàu Espérance la" một biến cố bi thảm đã gây nên một nỗi xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng tượng của người Annam "(sách đã dẫn, tr.223)
    Thật vậy, từ sau chiến thắng trên, hàng loạt cuộc tấn công trên sông liên tiếp diễn ra, như: nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tấn công tàu tuần tiểu Pháp trên vàm sông Bến Lức (tháng 12 năm 1862) và trên Sông Tra[10](16 tháng 12 năm 1862, có sách ghi ngày 17) gây nhiều thiệt hại cho đối phương.

    Paul Vial kể:

    "Ba chiếc tiểu hạm (Iorcha) đậu trên sông Vaico Đông (tức Vàm Cỏ Đông) nhằm kiểm soát sự lưu thông đường thủy, bị tấn công hết sức dữ dội bởi những nhóm người đông đảo, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance… Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã bị thương."(sách đã dẫn, tr. 195)
    Và Georfes Taboulet đã thú nhận:

    Cuộc nổi dậy bất ngờ bùng nổ vào ngày 16 tháng 12 năm 1862 (trận Sông Tra), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Sài Gòn; trong trận đó, viên đại úy Thouroude đã tử trận….

    Kiếm bạt Kiên Giang

    Tượng đài Nguyễn Trung Trực (mới) tại công viên trung tâm, T.P Rạch GiáSau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất (hòa ước Nhâm Tuất 1862), Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế nhậm chức Lãnh binh, đến giữa năm 1867, lại về Hà Tiên giữ chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất này. khi thành Hà Tiên thất thủ ngày 23 tháng 6 năm 1867, ông theo lệnh triều đình rút quân về Bình Thuận mà đưa quân về lập căn cứ ở Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Hòn Chông, tỉnh Kiên Giang)

    Vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, nghĩa quân cùng nhiều người dân yêu nước (có cả hương chức và người Hoa, người Khmer) do Nguyễn Trung Trực chỉ huy đã bí mật, bất ngờ đánh úp đồn Kiên Giang, do quan tư An Sart chỉ huy, tiêu diệt đối phương, trong số đó có 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng và nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền.

    Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin chủ tỉnh Rạch Giá cùng viên trung úy Gamard bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là “một sự kiện bi thảm” (un événement tragique).

    Hai ngày sau (ngày 18 tháng năm 1868), trung tá hải quân A. Léonard Ansart, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm chống đối phương lâu dài.Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.

    Phạm Văn Sơn thuật chuyện:

    Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...
    Có người cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và lòng hiếu với mẹ (Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.

    Pau Vial lại cho rằng:

    "Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc”.(Paul Vial, sách đã dẫn)
    Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày 23 tháng 5 năm 1950, vì thế sự việc chưa được tường tận

    Thọ tử
    Pháp phủ dụ Nguyễn Trung Trực qui thuận không được nên vào ngày 27 tháng 10 năm 1868, đô đốc toàn quyền Nam Kỳ G.Ohier cho đưa ông về lại Rạch Giá và đã sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30 tuổi.

    Người ta kể rằng:

    Vào buổi sáng ngày 27-10-1868, nhân dân Tà Niên nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ “thọ”(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào…
    Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã sang sảng ngâm bài thơ tuyệt mệnh:

    Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
    Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
    Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
    Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
    Thi sĩ Đông Hồ dịch:

    Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
    Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
    Anh hùng gặp phải hồi không đất,
    Thù hận chang chang chẳng đội trời.

    Câu nói lưu danh
    Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc đó vừa dụ hàng vừa hăm dọa, ông trả lời:

    “ Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên mặt đất thì chứng tỏ ngài mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này ”

    Và trước khi hy sinh, Nguyễn Trung Trực còn khẳng khái nhắc lại:

    “ Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây ”
    Khen ngợi

    Mộ Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên đền thờ chính tại Rạch Giá.Nguyễn Thông viết:

    “Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, ngiêm nghị và can đảm…”. (truyện Hồ Huân Nghiệp trong Kỳ Xuyên văn sao)
    Paul Vial kể:

    Trong khi đại úy hải quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất vấn ông Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hoàng chính đáng. Các câu trả lời của ông đã cho thấy một cách chính xác phẩm chất của con người đó, người đã đóng một vai trò đáng kể".
    Và ông Trực đã bình tĩnh nói với Piquet:

    " Số tôi hết rồi, tôi đã không cứu được quê hương tôi thì nay tôi chỉ xin một điều là được chết sớm chừng nào hay chừng đấy".
    Ở những đoạn văn khác, Paul Vial còn khen ngợi:

    Nguyễn Trung Trực là “người rất tự trọng, có tư cách đáng quí và đầy nghị lực”, là “ người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảm” là “ một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười năm trời”.(sách đã dẫn, quyển 2, tr. 241)
    Alfred Schreiner cho biết:

    Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc.(sách đã dẫn, tr. 300)
    Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt có câu:

    Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
    Tu sát đê đầu vị tử nhân.
    Dịch nghĩa:

    Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
    Lũ sống khom lưng chết thẹn dần
    Ðược tin ông thọ tử, vua Tự Ðức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:

    Ký bi ngư nhân
    Hùng tại quốc sĩ
    Hỏa Nhựt Tảo thuyền
    Ðồ Kiên Giang lũy
    Ðịch khái đồng cừu
    Thân tiên tự thỉ
    Hiệu khí cổ kim
    Thử nhân nam tư
    Xích huyết hoàng sa
    Ô hô dĩ hi
    Huyết thực thiên thu
    Chương nhữ trung nghĩa. Thái Bạch dịch:
    'Giỏi thay người chài
    Mạnh thay quốc sĩ
    Đốt thuyền Nhật Tảo,
    Phá lũy Kiên Giang.
    Thù nước chưa xong
    Thân sao đã mất
    Hiệu khí xưa nay
    Người nam tử ấy
    Máu đỏ, cát vàng
    Hỡi ơi thôi vậy
    Ngàn năm hương khói,
    Trung nghĩa còn đây.

    Và cũng chính nhà vua này đã sắc phong ông làm Thượng Ðẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chớ không chịu đầu hàng Pháp. Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân, luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài áo vải, vậy mà đã trở thành một vị anh hùng, đúng với ý nghĩa: "Sống làm Tướng và chết làm Thần!" và "anh khí như hồng", nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bảy sắc.

    Tưởng nhớ
    Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay cá Voi), chính là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại thành phố Rạch Giá hiện nay.

    Và khi người Pháp không còn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước “chợ nhà lồng” Rạch Giá (cũ)
    Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long...nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. (Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch–Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 06 tháng 12 năm 1989).

    Tên của ông được đặt cho một con đường ở thủ đô Hà Nội (Nguyễn Trung Trực) và Thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn Văn Lịch) ở Việt Nam.

    Ảnh

    Một khẩu đại bác loại nhỏ, thô sơ của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.

    Mảnh ván tàu Espérance, được trưng bày tại đền thờ chính.

    Nơi Nguyễn Trung Trực thọ án, nay là Bưu điện thành phố Rạch Giá.

    Chiếu Tà Niên do dân làm ra, để tỏ lòng tôn kính ông Nguyễn.

  6. #6
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Đến từ
    Gia Đình VOVINAM
    Bài gởi
    2,303
    Thanks
    16
    Thanked 23 Times in 17 Posts

    Default Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực

    Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
    11:44' 27/09/2005 (GMT+7)
    Du lịch văn hóa là một tiềm năng phát triển kinh tế du lịch bền vững, trong đó lễ hội dân gian có sức thu hút đặc biệt. Hàng năm, Lễ hội kỷ niệm ngày giỗ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở TP Rạch Giá (Kiên Giang) là dịp để hàng trăm ngàn khách từ khắp các nơi về tham dự.


    Đình Nguyễn Trung Trực trong ngày lễ hội

    Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là một ngày hội văn hóa truyền thống của tỉnh Kiên Giang đã có từ hơn 100 năm nay, diễn ra từ ngày 26 đến 27.8 Âm lịch. Năm ngay là lần lễ hội thứ 137, đã được nâng cấp thành lễ hội của tỉnh, được tổ chức qui mô và hoành tráng hơn các năm trước, kéo dài 7 ngày, dự kiến sẽ có 400 ngàn người tham dự. Sức thu hút của Lễ hội đình Nguyễn Trung Trực rất lớn, là nguyên nhân vì sao mỗi năm lượng khách đến tham dự mỗi tăng một cách tự phát. Những người đến tham dự lễ hội thường xuyên, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng còn có sự mong muốn hưởng thụ hoạt động văn hóa lớn của cộng đồng, còn là dịp để họ tìm hiểu vùng đất Kiên Giang.

    Năm nay, nhằm đáp ứng nhu cầu thành kính và sự chiêm bái tiền nhân, nhu cầu hưởng thụ văn hóa tín ngưỡng chính đáng của nhân dân, tỉnh Kiên Giang đã đưa ra kế hoạch hoạt động lễ hội này với qui mô lớn hơn những năm trước. Phần lễ sẽ được bảo đảm đúng nghi lễ truyền thống và qui định của Bộ Văn hóa về lễ hội. Lực lượng tham gia diễu hành và mít tinh dự kiến có từ 4.000 - 6.000 người, gồm nhiều đoàn, tạo không khí náo nhiệt và hoành tráng cho lễ hội với 10 đoàn lân - sư - rồng, đội cờ, kèn đồng, võ thuật, văn nghệ... theo đoàn rước sắc thần. Toàn thể người dân được tham dự lễ tế diễn ra theo đúng nghi thức tại đình thờ Nguyễn Trung Trực. Các tuyến đường chính của TP Rạch Giá sẽ được trang trí đèn lồng, cờ phướn, băng-rôn, khẩu hiệu, cờ hoa. Phần hội sẽ được tổ chức 3 ngày trước chính lễ với nhiều hoạt động vui chơi, giải trí. Sân khấu ngoài trời sẽ được dựng tại Công viên Nguyễn Trung Trực và sân Trung tâm Văn hóa - Thông tin TP Rạch Giá phục vụ văn nghệ cho khách. Liên hoan văn nghệ các dân tộc được tổ chức tại công viên đường Tự Do sẽ phục vụ cho 10.000 người xem. Hội thi cộ hoa, múa lân - sư - rồng sẽ được chấm và biểu diễn trong ngày chính lễ. Khách tham dự sẽ được thưởng thức ảnh nghệ thuật về đất nước - con người Kiên Giang tại sân đình. Hội chợ kinh tế khai mạc vào ngày 25-9 tại Công viên Lạc Hồng qui tụ khoảng 100 ngàn lượt khách. Ngoài ra còn có 120 gian hàng được phân lô dọc bờ sông Kiên dành cho các loại dịch vụ phục vụ khách đến tham quan đình thờ và dự lễ. Tại Công viên Văn hóa An Hòa sẽ tổ chức một số trò chơi dân gian với qui mô lớn như: đua xuồng ba lá, hội hoa đăng. Các trò chơi dân gian mang tính cá nhân như: đập nồi, nhảy bao, đẩy gậy, đấu cờ, đố thai... được tổ chức ở một số nơi sẽ là các điểm thu hút đông người tham dự.

    Nếu so với lễ hội Vía Bà Chúa Xứ của Châu Đốc (An Giang), lễ hội Linh Sơn Thánh Mẫu (núi Bà Đen, Tây Ninh) thì Lễ hội Nguyễn Trung Trực thu hút một lượng khách đông và đa dạng không kém. Đây còn chính là cơ hội để ngành du lịch tuyên truyền quảng bá, tổ chức các tua du lịch liên kết: tua tham quan đình thờ Nguyễn Trung Trực tại Tà Niên và Phú Quốc, kết hợp du lịch tham quan di tích lịch sử - văn hóa tại Rạch Giá, tham quan thắng cảnh Hà Tiên, sinh thái U Minh Thượng... Nếu trong tương lai có thể kết hợp lễ hội này tổ chức thành tháng du lịch tìm hiểu Kiên Giang thì sẽ là cơ hội rất tốt cho mảng du lịch văn hóa phát triển. Từ lễ hội Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá các tổ chức dịch vụ du lịch có thể tuyên truyền giới thiệu khách đến các vùng du lịch khác trong tỉnh một cách thuận lợi. Ngoài Lễ hội đình Nguyễn Trung Trực, Kiên Giang còn có một số lễ hội dân gian truyền thống thu hút đông đảo người tham dự như: lễ kỷ niệm Tao đàn Chiêu Anh Các (Hà Tiên), Lễ hội Ook om book đua ghe ngo trên sông Cái Lớn (Gò Quao) là những lợi thế và tiềm năng mà ngành du lịch Kiên Giang cần được quan tâm khai thác đúng mức.

    (theo Canthobao)

  7. #7
    Tham gia ngày
    Feb 2008
    Đến từ
    Kiên Giang
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    4,164
    Thanks
    4
    Thanked 36 Times in 29 Posts

    Default

    xin chào nếu lễ hội đình anh hùng dân Tộc Nguyễn Trung Trực năm nay mà có đi kiên giang chơi thì xin điện thoại vào số này của Hải nhé ! 0939919675

    Dây đai thăng cấp càng cao, lòng son vì nước đượm bao ân tình.
    Gió lên màu áo đại dương, trai hùng rộng mở tình thương vì đời..

  8. #8
    avocat_ttl's Avatar
    avocat_ttl Guest

    Default

    Rất hân hạnh được làm quen với bạn!
    mình là Trình Tuấn Lưu, đến từ Đầm Dơi, Cà Mau. Theo gia phả của gia đình thì bà nội mình gọi em thứ bảy của Nguyễn Trung Trực bằng bà cố. Hiện lăng mộ của thân sinh Nguyễn Trung Trực đang ở Đầm Dơi. Mình rất mong muốn khi có dịp sẽ một lần về dự lễ giỗ cụ Nguyễn, đến lúc đó chắc phải nhờ bạn giúp đỡ. Thân!

  9. #9
    Tham gia ngày
    Feb 2008
    Đến từ
    Kiên Giang
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    4,164
    Thanks
    4
    Thanked 36 Times in 29 Posts

    Default

    Hân hạnh được làm quen cùng bạn đến với đại gia đình vovinam tới ngày lễ hội đình Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá bạn có dịp đi thì điện thoại cho Hải nhé !

    Dây đai thăng cấp càng cao, lòng son vì nước đượm bao ân tình.
    Gió lên màu áo đại dương, trai hùng rộng mở tình thương vì đời..

  10. #10
    Tham gia ngày
    Feb 2008
    Đến từ
    Kiên Giang
    Tuổi
    37
    Bài gởi
    4,164
    Thanks
    4
    Thanked 36 Times in 29 Posts

    Default

    Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa

    Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, trên đảo Phú Quốc cũng có đền thờ, Thuyền trưởng đã tới dâng nhang và chụp hình, kiếm lại hình cũ mà hổng thấy nên post tạm hình nầy.
    Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Quản Lịch hoặc Quản Chơn, sinh năm 1838 tại Bình Nhật, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Bữa nay, kỷ niệm 140 năm ngày ông hy sinh (1868 - 2008), Thuyền trưởng sưu tầm, edit và post một số thông tin về người anh hùng dân tộc.
    Ngay từ khi Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, Nguyễn Trung Trực đã tham gia bảo vệ đồn Chí Hoà dưới quyền của Lãnh Binh Trương Định. Trong lúc triều đình hèn hạ ký hoà ước dâng đất cho Pháp thì Nguyễn Trung Trực vẫn cùng nghĩa quân chiến đấu. Ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đốt cháy tàu Hy vọng (L' Espérance) trên vàm Nhật Tảo. 17 lính Pháp bị thiệt mạng.
    Sau chiến công Nhật Tảo nầy, Nguyễn Trung Trực được triều đình phong chức Quản Cơ (bậc võ quan hàng chánh tứ phẩm.). Đồng thời cũng được lịnh dời quân ra Phú Yên. Nhận rõ âm mưu phá hoại kháng chiến của triều đình, ông đã cương quyết chống lịnh.
    Ngày 16 tháng 6 năm 1868, vào lúc 4 giờ sáng, ông đã chỉ huy nghĩa quân kết hợp với nội ứng tấn công đồn Rạch Giá. Đồn Rạch Giá bị nghĩa quân phóng hoả đốt cháy rực trời. Nghĩa quân giết chết 5 võ quan Pháp và 67 lính, thâu trên 100 cây súng.
    Sau nhiều lần thất bại, quân Pháp dồn lực lượng tấn công nghĩa quân. Pháp điều tên Việt gian Trần Bá Lộc từ Cái Bè đến Rạch Giá để đối phó với Nguyễn Trung Trực (Ôi! Bên cạnh những anh hùng, đời nào cũng có những tên phản bội, bán nước), chúng bắt mẹ ông và treo giải thưởng đầu ông 500 đồng (tiền ngày xưa). Vợ ông bị bịnh hậu sản. Đứa con nhỏ bị chết do thiếu sữa. Trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 19/9/1868, Nguyễn Trung Trực bị thương và ngất đi, lỡ sa vào tay giặc. Ngày 27/10/1868, Pháp hành quyết Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá.
    Người dân lục tỉnh và cả nước tôn thờ Nguyễn Trung Trực là anh hùng dân tộc. Câu nói lịch sử của ông còn lưu truyền. “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây!”. Hàng năm vào những ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch, hằng trăm nghìn đồng bào cả nước về Rạch Giá dâng nhang tưởng niệm ông, coi ông là người cha tinh thần. Rất nhiều huyền thoại được kể về võ công và tài trí tuyệt vời của ông. Người dân chài Rạch Giá coi ông như thánh thần bảo vệ họ khi ra khơi. Có nhiều ngư dân kể lại, nhờ ông báo mộng mà họ né được nhiều cơn bão.
    Để ghi nhớ chiến công oanh liệt của Nguyễn Trung Trực, một nhà thơ đương thời là Huỳnh Mẫn Đạt đã tặng ông bài thơ, trong đó có câu:
    "Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
    Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỷ thần."
    Dịch là:
    Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
    Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc.

    Dây đai thăng cấp càng cao, lòng son vì nước đượm bao ân tình.
    Gió lên màu áo đại dương, trai hùng rộng mở tình thương vì đời..

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

     

Quuyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts