+ Trả Lời Ðề Tài
kết quả từ 1 tới 10 trên 15

Hybrid View

  1. #1
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default Nữ tướng thời Trưng Vương

    Nữ tướng thời Trưng Vương

    Nguyễn Khắc Xương

    LÊ CHÂN: TƯỚNG QUÂN MIỀN BIỂN


    Người con gái ấy tóc đen như mun, lông mày đen nhánh và có nước da hồng như hoa phù dung. Người con gái ấy đậm và chắc. Tên nàng là Lê Chân.

    Nước biển xanh màu rêu. Nhưng Lê Chân nghĩ rằng biển đã hoà nước mình với máu con người. Máu những người Âu Lạc đã đổ ra tan trong sóng biển. Đứng giữa những tảng đá lớn như bầy voi quây quần, Lê Chân nhìn không chớp mắt người con trai vừa bị sóng biển đánh dạt vào.

    Người ấy chống tay cố gượng dậy. Lê Chân đỡ lên cho ngồi tựa vào tảng đá, rồi nàng bước lên một mỏm đá cao, khum bàn tay kề miệng và cất tiếng hú.

    Hú tới tiếng thứ ba thì có tiếng hú xa đáp lại.

    Những người mới đến đều đeo vòng tai bằng đá, cả trai và gái. Họ cởi trần, cầm lao nhọn. Họ đưa người mà biển cả mang đến cho họ đặt vào một hốc đá rộng, lấy cỏ khô đốt lửa lên, và yên lặng chờ. Từ lúc đến theo tiếng hú của Lê Chân, họ cứ lặng lẽ làm, không ai nói một tiếng.

    Người của biển là một anh con trai lực lưỡng, trán có một vết sẹo nằm chéo từ chân tóc bên phải tới đầu lông mày trái. Tay người ấy có dây buộc, loại dây chão dùng buộc thuyền lớn. Một bên chân hơi teo. Khi người ấy bắt hơi lửa ấm mở mắt ra nhìn xung quanh, cặp mắt đen thẳm ngơ ngác, đượm vẻ lo sợ.

    Mọi người vất thêm cành khô vào đống lửa, lửa bốc cao, lửa nhảy nhót và mọi người đều thấy vui.Chàng là một trong số những người bị giặc bắt đi mò ngọc trai, đi đánh cá mực và mò san hô cho chúng. Họ đang làm ở đảo Ngọc, và tám người lừa khi biển động và gió mùa từ Đông Bắc thổi về đã rủ nhau trốn trong đêm qua.

    Lê Chân bảo mọi người xung quanh :

    - Hãy đưa người của biển về làng của chúng ta. Anh ấy sẽ ở lại và là người của làng !

    Làng mới chưa có tên. Từ ngày làng đặt chiếc cột đầu tiên trên nền cát cho tới hôm nhận được người của biển đưa vào vừa tròn ba tháng. Tối hôm đó, làng họp nhận người mới và đặt tên làng.Họ đặt tên làng là An Biên, vì An Biên là tên làng cũ của họ và cũng là của chủ làng bây giờ : Lê Chân.

    Làng mới ven biển chỉ là sáu túp lều nhỏ, cột lều mái lều là những thân cây, cành cây còn nguyên vỏ hoặc đẽo sơ sài. Làng nằm dựa rừng, núp vào rừng và đá lớn, và cát trải trắng làng, gió mặn thổi suốt ngày đêm qua làng, sóng biển ì ầm không bao giờ dứt tiếng hát với làng, nói chuyện với làng, ru làng ngủ và đánh thức làng dậy, gọi làng ra với biển.

    Biết bao nhiêu công việc của một làng mới, và việc quan trọng nhất là làm ra lương ăn. Nơi đây chỉ có cát và sóng biển, có đá và cây rừng. Núi đá phủ cây từng mảng chạy ra biển như muốn chặn đứng biển lại. Biển tung sóng mạnh vào đá, thách thức.

    Người con trai được Lê Chân cứu tên là Vạn. Vạn thuộc các mùa cá biển, các loài cá biển, thuộc các gỗ rừng, cây rừng ở quê cũ Đông Triều núi cao, rừng già. Lê Chân giao cho Vạn hướng dẫn mọi người đóng thuyền đóng mảng ra lộïng ra khơi, may buồm và dệt lưới. Lê Chân nói với mọi người : " Biển cả sẽ nuôi chúng ta như mẹ hiền nuôi các con mình ".

    Mười tám người dân làng mới toàn người trẻ tuổi nói với Lê Chân :

    - Làng ta ít người quá ! Ít người thì không làm gì nổi. Làng ta không có người già. Không có người già là không có người dạy dỗ nên khôn.

    Lê Chân nói :

    - Các người nói đúng. Chúng ta hãy về quê cũ rủ về đây họ hàng và những người khổ cực. Chúng ta hãy tìm đón những người của biển đưa đến và tiếp đón tất cả những trốn tránh, lang thang.

    Ngày tháng qua, những túp lều mới mọc lên. Ban đêm có tiếng chó sủa, sớm mai có tiếng gà gáy. Buổi chiều, trẻ con ríu rít đi đón lưới. Quanh làng trồng khoai, trên núi trồng lúa. Tết năm ấy, Lê Chân nói với mọi người : " Chúng ta ăn ba cái tết ở đây rồi. Làng ta đã ba tuổi. Năm đầu, tết không có bánh tét và thịt lợn. Bây giờ chúng ta có cả ". Mọi người đều vui và một cụ già nhất làng nói : " Nàng chủ đã dựng lên làng này từ năm nàng 19 tuổi. Nàng là người vất vả nhất trong chúng ta, người lo nghĩ nhất làng, người con gái tài giỏi của rừng và biển. Sớm mai làng hãy ra khơi đánh mẻ cá đầu năm mừng tuổi chủ làng và lấy may cho cả làng ".

    Mười chín chiếc buồm in hình đen thẫm trên nền trời xanh. Chân trời đông hửng dần màu đỏ lửa và da cam. Mặt biển chuyển dần từ đen sang xanh lam như màu da trời. Trời biển một màu xanh thẳm. Đoàn thuyền cưỡi sóng ra khơi.

    *
    * *

    Cụ già nhất làng đã nói đúng. Lê Chân là người vất vả và lo nghĩ nhất làng, nhưng Lê Chân còn là người kiên nghị nhất. Khi 18 người trai gái theo nàng tới đây, họ chỉ thấy cát trắng và sóng biển. Cát và sóng biển thờ ơ với họ, và hình như còn đe dọa họ. Sống ở nơi đây ? Bằng cách nào ?

    Một vụ đói đã qua và thiếu đói kéo dài. Không có lúa, không có thịt và muối. Cát và núi đá không cho họ gạo. Biển cả bao nhiêu cá và của chìm nhưng nó đòi trả bằng máu con người.

    Những lúc khó khăn, Lê Chân ngồi bên bờ sóng và nghĩ. Nàng thấy những con dã tràng xe cát ngày đêm không mỏi. Những con vật tí ti da màu cát ấy không sợ sóng biển hung dữ cứ xóa đi xóa mãi những công trình của chúng. Những con vật tí ti ấy không chịu thua biển cả. Và hóa ra chính là biển cả đã nhọc công mất sức vì không thắng nổi chúng, những con dã tràng bé tí tẹo.

    Biển động, nuốt bớt số dân ít ỏi của làng mới. Mùa lúa nương đầu tiên không thu hoạch nhiều được vì không có thức gì ăn. Bão biển kéo đỗ những túp lều mảnh dẻ và xóa đi màu xanh của khoai và bí mới trồng.

    Những người ở làng mới nhớ quê cũ làng xưa, nhớ mừi rơm tháng chín, mùi cỏ tháng giêng, nhớ làn khói trên những mái tranh và những cánh cò trắng liệng nắng lóe sáng.

    Thế nhưng họ vẫn theo Lê Chân. Người con gái chủ làng nói với họ về những con dã tràng bé tí tẹo và nói lên những món nợ máu phải tính toán với quân đô hộ ngoại tộc. Họ theo Lê Chân và sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất bởi vì họ không thể sống chung một bầu trời với kẻ thù.
    Và những người cũ ở làng mới kể với những người mới đến về người con gái là chủ làng.

    Nàng đẹp và khỏe. Mùa xuân, con trai các nơi tìm đến hát với nàng và nàng thì chẳng hát với trai nào. Nàng chỉ hát một mình và hát với các bạn gái của nàng. Khi sáu người con trai không nhấc nổi đòn khiêng một cây thủy tùng, nàng ghé mình vào và cây gỗ nhẹ đi trên vai những người trai lực lưỡng. Có ai cấy nhanh hơn nàng ? Và có ai gói bánh chưng ngày tết khéo hơn nàng ? Bánh tét nàng gói tròn như ống mai ống vầu, đường sống lá chạy thẳng tắp chia đôi chiếc bánh. Nàng ngủ khi con cọp bắt đầu lần rừng và nàng thức trước khi con gà chuồng gọi mặt trời dậy.

    Hãy nhìn nàng đi săn. Chiếc áo màu lá rừng bó sát người và chiếc váy ngắn gợn sóng trên đầu gối, tay nàng cầm lao và lưng đeo lao. Khi tiếng tù và rúc lên, nàng dẫn đầu đoàn người săn, bước chân thoăn thoắt. Theo hiệu lệnh của nàng, những chiếc lưới mở ra, và con thú hồng hộc chạy, con lợn rừng nanh sắc như mác xông thẳng vào nàng. Nàng chạy xuống mé chân rừng và ngoắt mình lại phóng một mũi lao. Lưới khép lại. Đẩy, nàng là người đã dử con thú vào lưới và phóng mũi lao đầu tiên đánh ngã thú. Mọi người nhảy và hát quanh con vật bị thương. Con lợn rừng có đôi nanh sắc như hai lưỡi kiếm nằm chềnh ềnh như một quả gò.

    Các tên quan đô hộ trong địa hạt đều biết tiếng nàng và lui tới nhà nàng. Nhưng chúng biết bắt cọp dễ hơn bắt nàng. Và chúng " tâu " với Tô Định về Lê Chân, người con gái đẹp nhất Đông Triều, tóc đen như mun, mày đen như cánh nhạn và nước da hồng như hoa phù dung.
    Khi viên thừa sai Phủ thái thú đến đưa lễ vật và nói với ông Lê Thái Bảo xin nàng về " hầu hạ " quan thái thú, ôn đã khéo léo lựa lời từ chối. Ba tháng sau Lê Thái Bảo bị bắt và bị giết. Lê Chân trốn được. Nàng tới mồ mẹ khóc lóc khấn xin mẹ phù hộ trả được thù nhà và cùng những người thân tín ra đi...

    Đoàn thuyền ra khơi đầu năm đã trở về. Biển trao lễ vật cho đoàn thuyền đem về đưa nàng, người con gái kiên cường, người chủ làng anh hùng đang mài giáo cho sắc.

    *
    * *

    Nhà ở đây mái chấm gần sát đất, cửa ra vào ở đầu chái nhà. Cả làng chung một giếng. Lưới dăng quanh làng. Ban ngày làng quạnh vắng, chỉ chiều mới đem lại tiếng ồn ào, tiếng người và ngọn lửa ấm cúng. Nhưng làng mỗi ngày một đông vui hơn và bây giờ là năm thôn năm giếng nước ngọt. Nhà chủ làng ở thôn Giữa, bốn thôn Đông, Nam, Đoài, Bắc vây xung quanh. Thôn Bắc có lò rèn, thôn Nam vá lưới. Nhà chủ làng có treo đồi mồi trên vách và trống da trâu bên cửa. Làng có một ngôi đình nhỏ mái tranh thờ chung cả Sơn thần và Ông cá voi. Tháng giêng làng mở hội có đấu vật, trai gái kéo dèo (kéo co), tung quả còn qua vòng tre. Giết trâu tế thần, chủ làng tung búa cho trai làng cướp đánh đầu trâu, mổ trâu lấy da làm nồi nấu thịt.

    Chủ làng lo mọi việc, lo mở rộng làng, lo cho làng thêm người thêm của. Cái lo nhất lúc này là lo đối phó với kẻ thống trị dị tộc.

    Lẽ nào từ nay trai làng lại phải lui tới ở năm ở tháng trên các hòn đảo xa vắng để mò ngọc trai, săn cá biển và tìm san hô, sò huyết nộp cho kẻ thù ?

    Lẽ nào từ nay dân làng phải leo lên những vách đá cheo leo heo hút chìa ra biển để bắt những ổ yến về cho giặc tiệc yến phè phỡn với nhau trên xương máu của dân mình ?

    Lẽ nào từ nay lại phải nộp lúa nộp mình cho giặc ? Và những ai sẽ từ bỏ An Biên đi theo đoàn cống phẩm vượt nơi " phân mao cỏ rẽ " về tới Tràng An ?

    Bọn chúng sẽ lại mò tới An Biên, nhâng nháo, hạch sách, nạt nộ tìm cách vét của hiếp người !

    Con trăng mùa xuân treo cao trên bầu trời yên tĩnh gọi nước triều lên. Triều dâng ào ào cuộn sóng xô bờ. Đêm rộng vang tiếng biển. Tiếng biển cả đầy ngập không gian�

    Lòng Lê Chân lúc này còn xao động hơn biển lớn.

    *
    * *

    Lê Chân vừa là người chủ làng vừa là người thủ lĩnh. Khi nàng mới lần đầu đặt chân tới đây, nàng chỉ gặp biển lớn và cát trắng. Ngày nay An Biên đã có lúa có khoai, có trâu có lợn, có bãi xú, có thuyền đi khơi, có mảng đi lộng.

    Nhưng nàng đến nơi đây không phải là để trốn kẻ thù mà là để đánh chúng.

    Đánh bằng cách nào ?

    Đã năm nay, từ khi lễ mồ mẹ và khấn vong bố ra đi, nàng vẫn nghĩ tới điều đó. Trả thù cho mình và cho nhân dân bằng cách nào ?

    Câu hỏi nóng bỏng đó lúc này như ngọn lửa cháy đỏ trong đầu óc nhữngngười trách nhiệm ở An Biên.

    Sau khi bàn đi tính lại, mọi người đồng lòng cử cụ Họp, cụ già 70 tuổi có đôi lông mày trắng như bông và nước da đỏ như đất nung làm chủ làng thay Lê Chân để giao dịch với các quan chức của giặc. Lê Chân là con gái, gặp bọn kẻ cướp hiếu sắc tham lợi hàng ngày, rõ ràng là không tiện.

    Cụ già Họp chỉ là người đứng ra giao dịch với giặc, còn mọi việc quyết định vẫn do Lê Chân.

    Và một đội nghĩa dũng quân ra đời do Lê Chân đứng đầu với một chức mà dân tự đặt ra để phong cho Lê Chân : Đô lĩnh ! Cái chức ấy không thấy có trong hệ thống các võ chức hiện hành. Trong công việc hàng ngày, mọi người vẫn gọi Lê Chân là chủ làng hay chủ tướng.
    Nghĩa dũng quân của An Biên ra đời chỉ có 31 người trong đó có 8 cô gái khỏe mạnh được chọn làm nữ vệ quân. Em gái họ Lê Chân là Lê Ngà, con ông chú cũng ở trong số này. Còn những nghĩa quân nam đều là những người được tuyển lựa kỹ càng, vừa gan dạ, vừa khỏe mạnh.

    Bây giờ Lê Chân phải lo cho nghĩa quân tập dượt, lại lo gạo cho dân làng ăn lâu dài. Nghĩa quân vẫn đi biển, vẫn cắt cú nhưng tối tối lại cùng nhau tập vật, tập đao, tập múa khiên, tập đánh gậy. Họ tập rất hăng, rất say, và họ dạy lẫn nhau, ai biết thế nào dạy thế ấy.

    Lê Chân lo nhất là khoản gạo. Đánh giặc lâu dài phải có gạo. Làng biển không có gạo, vẫn lấy cá đổi gạo. Lại còn phải tìm một chỗ nào cho nghĩa quân ẩn náu, bởi không thể đem cái làng biển An Biên nhỏ bé và trống trải này ra để chọi nhau với giặc.

    Còn dân làng ? Dân chỉ thấy sung sướng khi đội nghĩa quân của mình ra đời. Đêm nào dân cũng đến xem " quân mình " tập, dân hởi lòng hởi dạ nhìn " quân mình " khoẻ biết bao, nhanh nhẹn biết bao, và mọi người trầm trồ khen anh này lăn khiên khéo, anh kia có đường gậy mới kín làm sao ! Lê Chân sợ việc lộ, bèn ra lệnh cho dân không được xem " quân mình " luyện tập nữa, và nói rõ cho mọi người biết phải kín đáo như thế nào, phải cẩn thận như thế nào mới có thể chống chọi được với kẻ thù hung ác và xảo quyệt.

    Làng biển lúc này vừa phải chống đỡ với những yêu sách nhũng nhiễu của giặc, vừa lo tìm cách đánh giặc và phòng giặc đánh.

    Chính Lê Chân, người chủ làng gái 22 tuổi phải gánh những mối lo nặng nề đó.

    Và cả làng cùng lo với Lê Chân.

    *
    * *

    Gió biển gầm suốt đêm. Gió mặn cuồng loạn chạy bốc cát cuộn mù trời và cát đập rào rào vào những túp lều mái úp sát đất. Gió thổi ù ù như có hàng ngàn chiếc cối xay đang cùng quay tít. Gió thổi thốc thổi quét, gió lồng lên, gió hồng hộc chạy, rít lên, xoáy tít rồi quật mạnh.

    Và biển cả cũng giận dữ nổi sóng, sóng vỗ tung trời.

    Không gian chuyển động trời đất rung lên.

    Rồi bình minh đến trên những xe mây hồng phớt, da cam và đỏ lửa. Nào ai nhớ đích xác tiếng gầm dữ tợn của gió mặn và biển cả tắt tự lúc nào ? Có lẽ tất cả cảnh tàn phá và nổi hoảng sợ đêm qua chỉ là một giấc mơ ? Trời đất trong, biển rất xanh, và đàn hải âu lại tung những chiếc cánh trắng đùa với sóng biển.

    Nhưng đâu có phải là cơn ác mộng ! Kìa làng biển đổ sập, úp sụp, chìm ngụp trong gió bão, làng biển nằm kia, tơi tả�

    Bình minh đã ngạc nhiên biết bao khi ánh sáng trong trẻo hiền hậu của mình gặp những mái nhà bị quăng xa, bị xé ra, những con người ướt át, lấm láp, bơ phờ, mắt trĩu lo âu, mắt tối xầm giận dữ.

    Lê Chân tóc chẩy xõa trên lưng, ướt bết vào lưng, Lê Chân người chủ làng kiên cường ấy lúc này đứng giữa đổ vỡ, lòng không khỏi bàng hoàng.

    Họ lại dựng làng. Và những con dã tràng màu cát, bé tí ti cũng lại lăng xăng vê cát làm những căn nhà tí tẹo của chúng.

    Con người không chịu thua thiên nhiên. Họ không chịu như những con dã tràng cứ để cho thiên nhiên phá mãi những công trình của mình. Họ học tập tính kiên nhẫn lạ lùng của dã tràng và khác hẵn với dã tràng là họ quyết làm cho những công trình của họ có thể chống được với tàn phá của thiên nhiên.
    Làng mới lại cười với nắng biển gió biển, làng mới lại ấm tiếng người, hơi người. Làng trồng rất nhiều cây ngăn gió. Làng làm nhà chạy dọc với chiều ngang bờ biển để bớt sức gió phá. Mỗi nhà có một cái hố nhỏ, và các vò, chóe đựng lúa, đỗ được đặt xuống đó.

    Đội nghĩa quân lại ra đi, đi để đón giặc bằng những mũi giáo của căm thù.

    *
    * *

    Nghĩa quân tìm giặc mà đánh. Sức còn mỏng, nghĩa quân không thể đánh thành lũy và đồn trại kẻ thù. Nghĩa quân đón những con đường giặc đi, đón những đoàn chuyển lương chuyển thuế, những đoàn cống phẩm, những đoàn giải tù, giải phu mà đánh.

    Giặc tiến qua một khu rừng trúc. Đi đầu là một toán lính đô hộ cầm giáo dài, mang cung tên. Xe vận tải đi, theo sau chở toàn lúa mới, chúng chuyển về huyện thành. Một tên hộ tướng cưỡi trên mình ngựa tay cầm đại đao đi quãng giữa và rồi lại xe, lại lính.

    Chúng tiến sâu vào rừng trúc, mệt mỏi, vội vã. Chúng thúc giục và quất roi vào mình những người phu đẩy xe. Tên tướng cưỡi ngựa mắt gườm gườm nhìn quanh. Chúng không sợ hãi gì. Rừng này không có thú dữ và vùng này vẫn là vùng an toàn. Dân đói kéo nhau đi ăn cướp thì không dám dại dột xông vào đoàn quân lương của huyện ; vả lại những toán cướp đường như thế ở vùng này cũng chưa có bao giờ.

    Nhưng bỗng tiếng hét tiếng hò reo cất lên vang dậy, tù và rúc inh ỏi và những người mai phục từ mặt đất bốc lên, lao tới vung giáo mác, lia đao xông thẳng vào đoàn lính áp lương. Chỉ chốc lát, tên tướng đô hộ đã nằm lăn trên mặt đất. Bọn lính còn sống sót chạy thục mạng.

    Ba chục xe lúa mới về với nghĩa quân cùng hơn trăm người phu áp tải.

    Đó là trận đầu, chiến công đầu của làng biển, chiến công đã làm nức lòng những con người nung nấu căm thù bao lâu nín nhịn. Chiến công ấy có lẽ chỉ là một chiến công nhỏ nhưng nó đã mở đầu một cuộc vùng dậy của những người bị áp bức, cuộc vùng dậy đầy sức mạnh căm thù của những người dân Âu Lạc miền duyên hải quật cường.

    Từ làng này sang làng khác, từ những làng ven biển vào tới những động và trại trong núi, người ta kể với nhau những chuyện thần kỳ về Lê Chân, người con gái anh hùng và về đoàn quân dũng mãnh của người con gái đó. Trận này tiến trận khác, đoàn quân Lê Chân ngày càng dày dạn trong chiến đấu, ngày càng lớn mạnh và giống như biển cả không bao giờ lặng sóng, đoàn nghĩa quân không bao giờ nghỉ bước chân chiến đấu của mình.

    Giặc khiếp hãi Lê Chân. Chúng đặt cho Lê Chân một cái tên : " Con cá kình biển Đông ". Cá kình tung sóng quẫy mình, nền đô hộ của giặc miền duyên hải rung rinh chao đảo và như ngụp chìm dưới những làn sóng mạnh.

    Dưới ngọn cờ Lê Chân, nhân dân miền biển vùng dậy.

    Lê Chân bây giờ không còn những nét non nớt trên gương mặt trẻ trung. Da nàng đã đen sạm vì gió biển, nắng biển. Gương mặt nàng gầy đi và nghiêm nghị trầm tư qua bao cuộc chiến đấu gian khổ.

    Nghĩa quân đi nơi này nơi khác, đi đến những làng ven biển và những trại trong rừng. Đã nhiều lần, nghĩa quân bị giặc vây lùng ráo riết, phải đào củ dém củ rạng để ăn. Làng An Biên bị giặc vây quét, lùng sục, bắt bớ, phá phách. Nhưng biển cả có bao giờ lặng sóng ?

    Nhiều chúa động và chủ làng tìm đến xin quy phụ Lê Chân. Vạn và Ngà trở nên những phó tướng được sĩ tốt yêu kính. Lê Chân đã tổ chức được quân doanh chia làm năm đạo : tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Thực ra thì chưa bao giờ cả năm đạo cùng được họp mặt, mà chỉ có các vị đốc lĩnh các quân là được gặp nhau.

    Mùa xuân năm ấy, Lê Chân chỉ huy các quân vây đánh thành châu Bản Lập, chém giết và bắt hơn một nghìn quân tướng đô hộ. Nghĩa quân chiếm giữ thành trì.

    Những người con của làng biển An Biên, những người lính chiến đầu tiên của nghĩa quân vùng biển Đông xúc động đến chảy nước mắt khi thấy nữ soái của mình đứng trên tướng đài, tươi cười nhìn cả năm quân chỉnh tề trong ngày đại lễ.

    Những người con của làng biển An Biên thấy nữ chủ tướng cười, với những giọt nước mắt long lanh trên gò má. Họ biết rằng cũng như họ, nữ chủ tướng Lê Chân đang nghĩ đến cái làng nhỏ bé với sáu mái lều con ven biển, nghĩ đến đội nghĩa quân đầu tiên 31 người thiếu áo mặc, thiếu lương ăn, nghĩ đến những ngày đào củ trong rừng, những đêm biển gầm phá tan những chiếc mảng của những người con tìm sống trên biển cả.

    Và họ còn biết rằng cũng như họ, lúc này nữ chủ tướng nghĩ đến những người lính chiến đã ngã xuống, máu thịt gửi đất chiến trường chẳng bao giờ còn trở về được để dự lễ mừng công.

    Những người đã đổ máu đào vì đất nước ấy sẽ cùng họ theo Lê Chân bước vào những trận đánh mới cho tới khi nước Âu lạc trở về với người Âu Lạc (1).

    Chú thích:
    (1) Nhân dân thời xưa đã dựng đền Nghè ở An Biên (Hải Phòng) để mãi mãi tưởng nhớ Lê Chân, người phụ nữ anh hùng.
    thay đổi nội dung bởi: Anh Huynh, 11-11-2010 lúc 04:13 PM

  2. #2
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default

    BÁT NẠN ĐẠI TƯỚNG
    :

    Trang Phượng Lâu là nơi gò rậm đầm sâu nằm bên sông Lô thuộc cố đô Văn Lang cũ. Thời Tô Định nhà Đông Hán làm thái thú quận Giao Chỉ, Phượng Lâu trang thuộc châu Bạch Hạc.

    Phượng Lâu có nhiều đầm hồ, khe suối quanh co trong một vùng cỏ cây rậm rạp, đồi nọ tiếp gò kia, nhà dựng trên đồi, đá xếp thành bực. Nhà nào cũng có dăm bảy ống nước dựng đầu nhà. Dân trồng lúa tẻ lúa nếp ở các tràn ruộng lầy, và bắt cua kiếm cá, bẫy thú, đào củ mà sinh sống. Con trai con gái lớn lên, mùa xuân rủ nhau hát đối từng đôi một, ưng ý nhau thì con gái đưa con trai về nhà mình mời trầu cau và hát ở nhà.

    Vũ Công Chất là hào trưởng ở Phượng Lâu, được giao quyền trông coi mười hai trang trong hạt, đầu nhà treo chiếc trống lớn mặt da trâu, tang gỗ mít, mỗi khi có việc, gõ trống một hồi là dân làng đến cùng làm. Nhà có người hầu trai, người hầu gái, có chó để săn và giữ nhà, có ngựa để cưỡi. Hào trưởng họ Vũ lấy Hoàng Thị Mầu người cùng trang thương yêu nhau đằm thắm, hợp ý đẹp lòng, ăn ở với nhau rất hoà thuận. Vũ công biết nghề thuốc, thường đi xa nhà hàng tháng tìm kiếm lá thơm rễ quý ở các vùng, dạo gót khắp 36 châu hái thuốc và chữa bệnh. Mọi việc nhà cửa cũng như việc các trang vẫn giao phó cho vợ lo liệu. Vũ công thường đến làm thuốc ở Mãn Châu. Một hôm đi hái thuốc, Vũ công gặp một toà cổ miếu tường đổ mái xiêu, nồi hương lạnh ngắt, rêu như xanh thềm. Vũ công đang tần ngần với cảnh, chợt thấy có một lão ông quắc thước gánh hai bó củi đi tới, mới vái chào lão ông và hỏi chuyện về toà cổ miếu. Lão ông đặt gánh củi cùng ngồi nói chuyện, nhờ thế họ Vũ được biết đây chính là miếu thờ Sơn Tinh công chúa húy Ngọc Hoa là vợ Sơn thánh Tản Viên. Miếu này xưa kia vẫn được tiếng là linh thiêng, nhưng trải qua nhiều phen biến loạn, dân cư phiêu bạt nên miếu vũ cũng hoang tàn. Vũ công than thở hồi lâu rồi nhờ lão ông đưa đến gặp người trang trưởng và các cụ trong dân, ngỏ ý muốn được cùng làng trùng tu lại ngôi miếu. Mọi người nghe nói đều mừng. Bấy giờ Vũ công bỏ tiền, cùng với người trưởng trang xây dựng lại toà miếu, lại tạc một pho tượng Sơn Tinh công chúa để thờ.

    Gió thu thổi vàng cả cây lá, rồi đông tới với những làn gió lạnh dồn về. Vũ công từ biệt Mãn Vhâu trở lại bản hương, dân làng vui mừng đến thăm hỏi, cũng có người đến để nhờ chữa bệnh. Bà Hoàng Thị Mầu cũng mừng vì thấy chồng vẫn khỏe mạnh, lại tìm kiếm được nhiều thuốc quý để cứu chữa cho những người bệnh tật ốm đau.

    Một đêm, Vũ công nói chuyện với vợ về việc sửa miếu tô tượng thờ Sơn Tinh công chúa ở Mãn Châu, vợ vui lòng nói rằng : " Công chúa tên húy là Ngọc Hoa, là con gái đức Hùng Duệ Vương, lại là vợ của Tản Viên Sơn thánh thần núi Ba Vì, tài cao phép lạ, có công lớn giúp nước yên dân. Nay ta trùng tu miếu của công chúa cũng là để bày tỏ tấm lòng kính nhớ tổ tiên vậy. Vũ công gật đầu cho là phải, vì tấm lòng Vũ công vẫn luôn nhớ tới các vua Hùng và căm giận quân giặc Hán cướp nước.

    Hai vợ chồng đang nhỏ to trò chuyện, chợt nghe có tiếng gọi ở cổng rằng : " Xin mời Vũ công ra bến sông mà đón bè gỗ ". Ông bà nghe gọi còn đang bỡ ngỡ thì lại nghe có tiếng nói sang sảng đưa đến : " Vợ chồng Vũ công chớ hồ nghi, ta là bộ hạ Sơn Tinh công chúa được lệnh đem đến cho ngươi một bè gỗ quý và một người con gái tài sắc hơn đời, ngươi mau ra mà tiếp nhận ! ". Vũ công bèn bảo gia nhân đốt đèn đuốc, cùng nhau ra bến sông, quả nhiên có bè gỗ nằm bên bờ, mỗi cây gỗ đều lớn tày ôm. Khi hai vợ chồng trở về đang ngồi nói chuyện, chưa hết lạ lùng, lại có tiếng người con gái thỏ thẻ nói rằng : " Mẹ ơi, mở cửa cho con vào với ! ". Vừa lúc ấy, vụt có bóng một người con gái mặc áo màu hoa sen bước vào nhà, nhào vào lòng bà Hoàng Thị Mầu rồi biến mất.

    Sau đó bà Hoàng Thị Mầu mang thai, đủ chín tháng mười ngày sinh đuợc một gái trắng trẻo xinh xắn. Không những hai vợ chồng Vũ công mừng rỡ mà dân các trang bản xung quanh vùng đều đến chia mừng. Vũ công đặt tên con là Thục. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Thục nương càng lớn càng tươi đẹp, da như vỏ trứng, má hồng môi thắm, mắt sáng mày cong, dáng người mềm mại như cây liễu mùa xuân. Tới năm mười sáu tuổi, Thục nương nhan sắc như bông phù dung buổi sớm, sách đọc chỉ một lượt là thuộc, kiếm múa như gió thổi hoa bay, mỗi khi ra ngoài ai nấy đều tôn sùng là " nữ tiên hạ thế ".

    Thục nương thường ưa thích ngồi thuyền dạo chơi trên sông Lô, có khi mở lưới quăng chài cùng các bạn gái, có khi vừa chèo vừa hát, tiếng hát ngân nga trên mặt sông. Một dải sông dài trong xanh, những cánh buồm phồng gió xuôi dòng như đàn bướm trắng khổng lồ đùa nắng. Đôi ba bè gỗ từ thượng nguồn về trôi lờ đờ chậm chạp, một con cò trắng duỗi thẳng chân lượn theo rồi lại vỗ cánh bay về phía lũy tre làng. Trên doi cát bạc, mấy chú bồ nông đứng im lặng nghiêm trang dường như nghĩ ngợi điều gì. Đôi bờ xanh ngắt vang tiếng gà gáy chó sủa, những làn khói thổi cơm chiều bay lên rồi loãng dần và tan vào màu xanh của bầu trời mát dịu. Vào mùa cá, trai gái vừa buông lưới vừa hát đối với nhau. Mùa thu trăng tỏ, trai gái ngồi dưới bờ tre cùng hát. Thục nương rất ưa thích hát đối và mỗi khi nàng cất giọng, mọi người đều ngơ ngẩn lắng nghe. Nàng nhanh trí nên trong cuộc hát đối, càng chàng trai vẫn phải chịu thua không tìm được lời hát lại.

    Thục nương cũng thích đua trải trên sông. Tay chèo mạnh, mái chèo đập nước, Thục nương lại hò một câu hò ngắn và các bạn nàng lại cất tiếng " huê " vang để giữ nhịp tay chèo :

    Thuyền ta - " huê " !

    Rẽ sóng - " huê " !

    Cò trắng - " huê " !

    Bay vòng - " huê " !

    Dòng sông - " huê " !

    Xanh ngắt - " huê " !

    Ta bắt - " huê " !

    Con trôi - " huê " !

    Ta lôi - " huê " !

    Con chép - " huê " !


    Tiếng hò mỗi lúc một gấp, những chiếc thuyền gỗ dài mình, nhọn mũi vùn vụt trôi. Các bạn trai chẳng chịu thua con gái, cố sức cho trải vượt, không kịp nghĩ các câu hò, chỉ hò gấp một điệu : " ơi khoan - huê ! "... Mỗi tiếng hò là người lại ngả về sau, mỗi nhịp " huê " là người lại cuối rạp về phía trước, mái chèo đẩy sóng bọt nước bay tung.

    Một ngày, Thục nương cùng các bạn gái đập trám trên một gò cao, các cô nhặt những quả trám đen bỏ vào những chiếc giỏ tre nho nhỏ. Vũ công đi thăm người bệnh về nhân thể tạt qua rủ con cùng trở lại nhà. Chợt mọi người cùng nhìn thấy ở đường nhỏ bên kia đầm nước có một người con gái trạc tuổi Thục nương, gương mặt tròn trặn bầu bĩnh, mặc áo lụa xanh, yếm tơ vàng, cưỡi con ngựa đen nhánh, bờm bay như mây tỏa. Những nguời đi theo nàng đều cầm giáo vác lưới, khiêng một con nai lớn, đàn chó hung hăn nhảy nhót theo chân. Người con gái ấy nét mặt nghiêm trang mà tươi tắn, thoạt nhìn thấy nàng, Thục nương đã đem lòng yêu mến, bèn hỏi cha : " Nàng đó là ai ? ". Vũ công nói : " Đó là Nàng Nội, con gái yêu của quan chủ trưởng châu ta đấy ". Thục nương nói : " Người con gái ấy quả là xinh đẹp, nhưng không biết có tài cán gì không ? ". Vũ công nghiêm mặt mà rằng : " Con nói những lời kiêu ngạo, không xứng đáng với nền nếp nhà ta. Vả lại Nàng Nội là gái anh hùng, tài đức ấy con sao sánh kịp. Nàng là con gái quan trưởng châu ta đấy. Ngài là người uy vũ hơn đời, ân đức trùm khắp, thương dân như con, lại dòng dõi lạc tướng. Nếu nàng đến nhà ta, cha sẽ phải mở rộng cửa giữa đón tiếp, còn con thì chỉ được têm trầu mời nước mà thôi ". Thục nương biết mình lỡ lời, mặt đỏ bừng, không dám nói nữa. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Vũ công thương yêu con gái rất mực, nhưng ông không nuông chiều thả lỏng mà luôn nhắc nhở con phải biết khiếm tốn thành thực, giữ gìn phẩm giá, kính người già, đỡ người yếu. Thục nương được sự dạy dỗ của cha mẹ nên được mọi người quý trọng vì nết cũng như yêu mến vì tài.

    Một hôm, có ba chiếc thuyền cập bến Phượng Lâu, người dưới thuyền lên bờ, con trai đều chít khăn đầu rìu màu đỏ, thắt lưng đỏ, con gái đều mặc áo màu yếm lụa, các cụ chống gậy, ve vẩy chiếc quạt cọ. Đoàn người hỏi thăm đường về trang trại Vũ công. Có hai người đội hai mâm trầu cau đi trước, hai người khiêng rượu theo sau. Vũ công đón tiếp vui vẻ, lòng có ý mừng, vì đó là Phạm Danh Hương đã cùng gia đình đem cơi trầu đến cầu hôn Thục nương. Phạm Danh Hương là con vị hào mục cai quản mười ba trang trại ở Nam Chân, bên kia sông, chính quê ở Liệt Trang, Vũ công đã qua đó làm thuốc nên có quen vị hào mục và biết Phạm Danh Hương. Phạm Lang năm ấy tuổi ngoài hai mươi, hình dung tuấn tú, văn võ tinh thông, nghe tiếng Thục nương là khách anh tài, hiền hòa đức độ nên đến đặt trầu cau dạm hỏi. Khách ở lại ba ngày, chủ khách tâm đầu ý hợp. Thục nương têm trầu cánh phượng ra tiếp, thấy Phạm Lang mày xanh mắt sáng, nói năng từ tốn, cử chỉ khiêm cung nên cũng vui lòng ngỏ lời kết ước. Hát đúm ba đêm, con gái cất lời hát trước, ném chiếc khăn tay bọc trầu cau và một đồng tiền cho con trai. Con trai bắt lấy quả đúm hát đối lại và ném trả quả đúm cho người con gái. Theo lệ, trai gái đính hôn phải hát với nhau, người con trai giữ lấy quả đúm, mở ra ăn miếng trầu và trao lại cho người con gái miếng trầu khác. Nếu người con gái cũng ăn trầu là coi như việc hôn nhân đã đính. Từ ngày ấy, Thục nương bắt đầu dệt vải, may chăn thêu áo, chờ mùa thu sang năm qua sông về làm vợ Phạm Lang. Có hào mục họ Trần cũng lại cầu hôn với Thục nương. Hào mục họ Trần năm ấy tuổi đã bốn mươi, nhà giàu nổi tiếng ở châu Bạch Hạc, trong nhà có ngà voi, sừng tê, lông công, lông trĩ treo kín vách, quế thơm chất đầy hòm, trâu thả hàng đàn, thóc chất hàng vựa. Trần cậy mình có của nên đến hỏi Thục nương, mặc dầu biết Thục nương đã hứa hôn rồi.

    Vũ công lựa lời từ chối, họ Trần mang lòng oán giận, lấy việc bị từ hôn làm điều sỉ nhục, ngày đêm nghĩ cách trả hờn. Họ Trần bèn kết thân với bọn quan Hán, rồi xin được gặp Tô Định, hết lời ca tụng sắc đẹp Thục nương. Tô Định nghe lời họ Trần, tâm thần mê mẩn, muốn được giáp mặt Thục nương để xem hư thực thế nào. Một hôm Tô Định cùng một bọn quan quân giả làm khách buôn ghé thuyền vào bến Phượng Lâu, xin yết kiến Vũ công. Vũ công đón tiếp tử tế. Thục nương mời trầu nước rồi lui gót. Tô Định mới được gặp Thục nương trong chốc lát mà đã mê mẩn tâm thần, bèn nói với bọn quan hầu rằng : " Người con gái này nếu không phải là Hằng Nga nơi cung Quảng thì cũng là tiên nữ chốn Bồng Lai, ta quyết phải đón nàng về Phủ, cùng nàng vui thú như Ngô vương với Tây Thi mới thỏa tấm lòng ! ". Ở Phượng Lâu hai ngày, Tô Định cáo từ ra về, lập tức ra lệnh triệu Vũ công tới Phủ thái thú. Vũ công nhận lệnh không rõ có việc gì mà Phủ thái thú lại gọi đến mình, nhưng cũng phải thu xếp theo viên sứ lên đường ngay. Tới nơi Tô Định mở tiệc đón mừng, tôn Vũ công ngồi ghế trên. Vũ công nhận ra Tô Định chính là khách buôn người Hán vừa ghé nhà mình, lòng càng lo ngại, từ chối không dám ngồi trên. Tô Định lại cho Vũ ccâng ngồi ngang mình rồi trong tiệc rượu ngỏ ý xin Thục nương để lập làm phu nhân. Vũ công giật mình đặt chén mà rằng : " Thục nữ xấu xí đã nhận lời kết hôn với con vị hào mục ở Nam Chân rồi ". Tô Định đưa lời ép buộc, Vũ công một mực chối từ. Tô Định nổi trận lôi đình, truyền đánh chết Vũ công, lại cho lệnh triệu ngay cha con hào mục Nam Chân về hầu. Khi Phạm Danh Hương và cha vừa tới nơi, Tô Định thét quân dưới trướng lấy gậy đánh chết cả hai cha con, lại phát lệnh cử một đạo quân về Phượng Lâu trang bắt lấy Thục nương đưa về thành phủ. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Viên nha tướng Phủ thái thú đem hai trăm binh mã về tới Phượng Lâu vây kín các ngả, rồi nói với bà Hoàng Thị Mầu và Thục nương rằng : " Quan thái thú cho bản chức đón Thục nương về phủ lập làm phu nhân. Hiện Vũ công vẫn lưu lại ở phủ chờ Thục nương để cho cử hành hôn lễ ". Cùng hôm ấy, một người nhà đi theo hầu Vũ công từ Phủ thái thú trốn được về, bèn đem hết mọi chuyện tàn ác của Tô Định ra nói, vừa nói vừa khóc. Mẹ con Thục nương nghe tin ngất đi mấy lần, vật mình nức nở.

    Người hầu gái thân tín thưa rằng : " Giặc đóng quanh nhà, chờ sáng mai đưa Nàng về Phủ. Lúc này không phải là lúc than khóc, xin Nàng mau tính kế thoát thân ". Thục nương nghe ra, bèn nuốt đau ngậm hờn, truyền cho người nhà lén đưa mẹ ra khỏi trang tìm nơi ẩn náu, còn mình thì nai nịt gọn gàng, kiếm cầm tay, cho mời viên nha tướng vào nói chuyện. Viên tướng Hán đang cơn say rượu chệnh choạng bước vào, liền bị Thục nương phóng kiếm, đổ vật xuống đất. Thục nương múa kiếm cùng gia nhân phá vòng vây. Giặc hò nhau đuổi, tình thế rất gấp. Thục nương truyền cho gia nhân rẽ sang ngã khác rồi một mình lén theo đường tắt ra sông, may gặp chiếc thuyền nhỏ bên bờ, liền nhổ thuyền thả xuôi dòng nước. Lúc ấy mặt trời đã lặn. Thuyền trôi vùn vụt trong đêm, tới khoảng canh tư thì dạt vào bến. Thục nương bước lên, thấy vài chiếc lều quán chợ rảo bước vào phía trong gặp một tòa miếu cổ, cửa miếu hé mở, liền vào ẩn trong miếu. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Gà vừa gáy sáng, chợ đã có người đến họp. Vài người đi chợ sớm rẽ vào tòa miếu, thấy có vết máu, kinh lạ nhìn lên thượng cung, thấy một cô gái ngồi phục ở đấy. Cô gái thấy có người, đập kiếm mà rằng : " Giặc Tô tới đây, nhất định phải chết ! ". Những người đi chợ sợ hãi kêu to lên, mọi người đổ tới vây kín lấy miếu, bàn tán xôn xao. Có một cụ già tiến lên nói với cô gái : " Chúng tôi là dân làng đây, đều là dân làm ăn lương thiện, làm gì có giặc Tô nào ở đây. Còn nàng từ đâu đến ? ". Thục nương bèn từ thượng cung bước xuống. Mọi người nhìn xem, thấy là một người con gái xinh dẹp, tuổi trạc đôi mươi hai tay cầm hai thanh kiếm, áo quần còn giây vết máu, ai nấy đều lạ lùng, cất tiếng hỏi thăm. Thục nương nghe hỏi, nước mắt trào ra, nói rằng : " Tôi là người ở trang Phượng Lâu, châu Bạch Hạc. Giặc Tô tham sắc, muốn bắt tôi về hầu hạ nó, nhưng tôi là gái đã hứa hôn, khi nào lại chịu làm điều sĩ nhục ấy, Tô Định bèn giết cha và chồng tôi, giết cả bố chồng tôi rồi cho quân vây bắt tôi. Tôi chém tướng phá quân, một mình về được tới đây, không ngờ lại được các cụ dân trang chào hỏi. Nếu như giặc Tô theo đến, tôi quyết cùng chúng một trận sống mái ". Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Dân chúng nghe nói, đều căm giận giặc Tô tàn bạo. Mọi người đón nàng về, thay nhau chăm sóc. Được vài tháng, nàng nói với dân trang : " Làm con không rửa được thù cha, làm vợ không trả được thù chồng, làm dân không báo được thù nước, sao có thể sống mà không hổ thẹn ! Tôi xin cải trang tu ở chùa làng, rồi sẽ định liệu ". Ông hương trưởng nghe lời nàng nói cũng vui lòng hăng hái bàn với ông tự chùa cho nàng gọt tóc niệm Phật nương mình nơi cửa thiền. Từ đó, Thục nương là một vị sư nữ đạo cao đức trọng, tuần rằm mồng một lễ bái đèn nhang, nơi nào có người mời đi cúng lễ dù gần hay xa nàng đều vui vẻ nhận lời, dựa vào các dịp đó mà tìm gặp những người có chí.

    Thục nương thường tìm đến hỏi thăm các cụ già, được các cụ tin cậy quý mến. Một hôm, Thục nương mời ông hương trưởng và vài cụ phụ lão tới chùa dự lễ dâng hoa cho Phật vào buổi tối, rồi giữ mọi người lại, đóng chặt cửa Tam quan, cùng nhau bàn tính những chuyện lộ ra có thể mất đầu : dựng cờ nghĩa đuổi giặc nước. Có một cụ già nói : " Đuổi giặc Hán ra khỏi bờ cõi, dân ta lại làm chủ nước ta, ai chả muốn. Làng này toàn người tốt cả. Việc nhà chùa muốn bàn chắc được dân nghe đấy ! ". Ông hương trưởng thong thả nói : " Đành là dân nghe, nhưng làng ta đây người thưa ruộng mỏng, cả làng chỉ vài chục nóc nhà, đói thiếu quanh năm, làm thế nào đánh đuổi được giặc ? ". Thục nương nói : " Điều đó tôi đã nghĩ tới rồi. Có mấy việc ta phải lo trước. Phải làm sao cho có người có của đã rồi mới nói chuyện tụ nghĩa được ". Mọi người cùng bàn tán với nhau, tới canh ba mới chia tay. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Sau hôm ấy, làng đón các phường châu về buôn bán, lại đón các ông lò rèn về đánh dao đánh rựa bán đi các nơi. Nhờ có lò rèn và chợ trâu, người qua lại Tiên La ngày thêm đông, Tiên La mới chiêu tập dân lang bạt các nơi về chia đất cho, gọi là " cho một mũi cày " lấy đất bãi bồi bên sông mà chia. Những dải đất soi vẫn bỏ hoang nay xanh ngắt chuối mía khoai ngô. Từ đó, Tiên La mỗi ngày một thịnh vượng, xóm làng sầm uất, trên bến dưới thuyền, đời sống nhân dân cũng nhiều phần khấm khá hơn trước, cũng là nhờ công sức của Thục nương cả. Dân làng bảo nhau : " Trời cho dân ta được Thục nương về đây. Không có Thục nương làm gì có được quang cảnh này ". Dân làng một lòng một dạ tin theo Thục nương.

    Thục nương lại bàn việc khởi nghĩa với ông hương trưởng và các cụ. Người già vui lòng chống gậy đi các nơi nói với gái trai các trang các sách, nói với người đánh cá quanh năm bồng bềnh sóng nước, nói với người cày ruộng đầu năm chí tối xối mồ hôi trên luống đất, nói với những người không nhà không cửa, lăn lóc quán chợ, đầu đình, nói rằng : " Ở Tiên La có nữ thần quan được trời cho xuống cứu dân ta đấy. Khổ cực quá rồi ! Bà con ta hãy đến Tiên La theo nữ thần quan mà cứu lấy thân, cứu lấy nước ! ". Các cụ lại nói với các hào trưởng rằng : " Dân đây không thuộc quyền các ông, của cải ruộng nương nhà các ông không thuộc quyền các ông. Quan Hán khinh rẻ hiếp đáp các ông. Sao không theo nữ thần quan ở Tiên La mà đứng dậy ? ". Tiên La trang chẳng bao lâu đã là một trung tâm tu nghĩa mà ngôi chùa cổ ở bên sông gần bến chợ đã trở thành chỉ huy sở của nghĩa quân vậy. Bấy giờ các làng bên sông đều tích trữ quân lương, tụ họp trai tráng, mua ngựa sắm thuyền, rèn gươm chứa giáo, chỉ chờ dịp nổi lên giết giặc. Mùa thu, nghĩa quân họp lại dưới cờ Thục nương đã được trên một ngàn, thanh thế lừng lẫy. Thục nương dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bát Nạn đại tướng quân.

    Bọn thống trị Hán giật mình kinh sợ, đem quan quân tới Tiên La đánh dẹp nghĩa quân. Bát Nạn đại tướng quân đánh với giặc, lúc ẩn lúc hiện, giặc vây nơi này thì nơi khác nổi lên, giặc không những không dẹp được Tiên La mà còn bị nghĩa quân đánh thua nhiều trận.

    Dân chúng các nơi theo về với Thục nương ngày càng đông.

    Lại nói Tô Định cai trị cõi Nam giao, tham tàn có một, bạo ngược không hai, dân chúng đâu đâu cũng một lòng oán hận. Hào kiệt bốn phương chống kiếm đứng dậy kể có hàng trăm, gái trai các nơi nghiến răng mài giáo kể có hàng ngàn, thiên hạ như nồi nước đang sôi sùng sục.

    Cháu ngoại các Vua Hùng là Nàng Trưng Trắc ở Mê Linh cùng em là Trưng Nhị dựng cờ đại nghĩa, truyền hịch khắp trong nước, giục giã mọi người mau mau nổi dậy đánh đuổi giặc Hán tham tàn, giành lại non sông, lật đổ ách đô hộ tàn bạo của dị tộc, cùng mưu một cuộc sống an vui, một cảnh đời thái bình thịnh trị.

    Trưng nữ chủ nghe tin Thục nương khởi nghĩa ở Tiên La nhiều lần đánh quân Hán phải chạy dài, liền cho sứ đem hịch đến vời. Thục nương tiếp sứ đọc hịch, lòng còn băn khoăn nghĩ ngợi, lưu sứ lại để còn suy tính trước sau. Bấy giờ Thục nương cho mời các nam nữ đầu mục, một số các cụ phụ lão và hương trưởng các trang lại, cùng bàn xem có nên đem quân theo về với Trưng nữ chủ. Có người nói rằng : " Sức ta đã mạnh, giặc Hán hung bạo mấy lần đến đánh ta đều phải tan chạy. Sao ta lại phải cắp giáo phụ vào với người ? Vả lại Bát Nạn đại tướng cũng là bậc anh hùng ở đời, lo gì không hoàn thành được nghiệp lớn ". Mọi người bàn cải xôn xao. Thục nương ý cũng chưa quyết bề nào. Lúc ấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, mình gầy vóc hạc, mắt sáng như chớp, đứng dậy từ tốn mà rằng : " Lão nay chỉ một Tết nữa là trời cho một trăm tuổi thọ, chưa bao giờ thấy anh hùng độc trụ mà thành. Vả lại nhà Hán cai trị nước ta gần hai trăm năm, dữ tợn ngang ngược, quân đóng kín đất Giao Chỉ, ta lấy sức một người đuổi sao nổi giặc, chống sao lại được triều đình của Hán đế ? Ấy cũng vì hiểu cái lẽ ấy nên Trưng nữ chủ mới nêu sáng danh nghĩa dòng dõi Hùng Vương mà tập hợp anh hùng, kêu gọi dân chúng cả nước thắt dải đồng tâm, nhất tề nổi dậy. Lão xem cứ một việc ấy đủ biết Trưng nữ chủ trí lự sâu xa, hào kiệt trong thiên hạ không ai sánh nổi. Nay nếu ai chỉ biết phận nấy, mạnh ai người ấy đánh, thử hỏi giặc kia mà bẻ đũa từng chiếc thì liệu dân chúng Giao Chỉ bao giờ mới ngóc đầu dậy được ? ". Mọi người nghe cụ già nói đều nín lặng bồi hồi. Thục nương cũng như người ngủ mê chợt tỉnh, vái lão trượng mà rằng : " Lời nói của lão trượng như vén mây mù cho chúng tôi được thấy trời quang. Nếu không có lão trượng, tiện nữ này làm lỡ việc lớn mất ! ". Thục nương bèn tiếp sứ giả long trọng, rồi truyền lệnh mổ trâu giết lợn khao quân, chọn hai mươi ba cô gái khỏe mạnh dũng cảm ở Tiên La làm quân túc vệ, lại cho nữ binh đều mặc nam trang. Phiên chế đội ngũ chỉnh tề xong xuôi, Thục nương cưỡi ngựa kéo quân đến bái yết Trưng nữ chủ. Trưng nữ chủ đẹp lòng khen ngợi, phong Thục nương làm Đại tướng quân trưởng lĩnh tiền đạo. Thục nương lại xin được gặp Nàng Nội. Lúc này, Nàng Nội giữ ấn tín binh phù và cờ lệnh của Trưng nữ chủ, cũng dự bàn việc quân cơ. Khi gặp Thục nương, Nàng Nội tiếp đón thân thiết, thăm hỏi ân cần rồi bảo với Thục nương rằng : " Ta với nàng đều mang thù sâu với Tô Định, nay may được gặp Trưng nữ chủ phất cờ đại nghĩa, bốn bể theo về, chính là một dịp may cho chúng ta đấy. Nàng cầm đầu đạo tiền quân, phải gắng sức lên ! ". Thục nương cung kính vâng lời, khi lui ra nói với các tướng cùng quê rằng : " Cha ta xưa nói đúng : ta không thể bằng người ấy được ".

    Sau lễ tế cờ ở Hát Môn, đạo tiền quân của Thục nương cũng cờ đào mở gió, giáo gươm sáng quắc lên đường. Nghĩa quân đi tới đâu, dân chúng đều nô nức dắt díu nhau đón chật hai bên đường vui mừng gánh gạo dắt trâu để làm lương cho quân cứu nước.

    Dẹp xong Tô Định, Trưng Trắc lên ngôi vua, phong Thục nương làm Bát Nạn đại tướng quân, Trinh Thục công chúa. Sau lễ khánh hạ, Thục nương giữa triều quỳ gối tâu với Trưng Vương rằng : " Hạ thần vì giặc Tô Định giết cha giết chồng mà dấy binh khởi nghĩa, nay nhờ được uy đức của bệ hạ đã trả được thù nhà, đền được nợ nước, xin dập đầu trước bệ bái tạ quân vương. Nay nước được thanh bình, xin bệ hạ cho kẻ hạ thần được trở về quê quán tế cha tế chồng và thăm mẹ già cùng quê hương bản quán ". Vua Trưng khen Thục nương là người hiếu nghĩa, chuẩn tấu cho về thăm mẹ, lại ban cho xe loan, quân hầu, thị nữ cùng vàng ngọc lụa là. Sau khi Vua Trưng bãi triều, Thục nương lui gót về cung sở thu xếp hành trang rồi cùng quân gia về ngay trang Phượng Lâu. Tới quê hương, Thục nương cho đón mẹ về, lại mời các phụ lão đến chuyện trò thân mật rồi mở hội ba ngày. Nhân dân các trang đều đến chúc mừng, bày các trò vui đánh vật, bơi trải, hát đúm, tung cầu. Vài hôm sau, Thục nương sang thăm Liệp trang. Thục nương cho thiết lập cung sở ở Phượng Lâu rồi xuôi thuyền về Tiên La. Nhân dân Tiên La vui mừng mở hội đón rước. Thục nương ở lại Tiên La nửa tháng, bàn với các cụ mở mang thêm rộng chợ, trồng thêm dâu tằm, lại bàn việc tu sửa chùa chiền đền miếu. Xong xuôi mọi việc, Thục nương về triều bái yết Trưng Vương. Trưng Vương yêu mến Thục nương, tuy là nghĩa vua tôi mà thực ra thì đối với Thục nương như tình ruột thịt.

    Mã Viện vâng lệnh Hán đế cầm quân sang đánh chiếm Giao Chỉ. Trưng Vương cử các tướng đón đánh quân Hán ở các ngả. Thục nương lại cầm quân đuổi giặc, nhiều trận thắng lớn. Quân Hán thua, rút về biên giới. Thục nương được Vua Trưng xét công, gia phong cho làm Điển trưởng nội thị phu nhân, được ra vào nơi cung điện, lại cho phép về nghỉ một tháng ở quê nhà. Một hôm nhân dịp làng ăn mừng cơm mới, Thục nương mời các phụ lão vào cung sở dự tiệc xôi mới. Đang lúc vui vẻ, có người khách nói rằng : " Nghe tin Mã Viện được viện binh lại chia đường tiến vào nước ta, hiện quân ta đã đón giặc ở biên giới ". Thục nương nghe nói, ngay hôm ấy nai nịt, cưỡi ngựa lên đường vào triều tâu với Trưng Vương xin được ra đánh Mã Viện.

    Thục nương mỗi khi ra trận, đầu đội mũ trụ cài lông trĩ, mình mặc áo giáp bạc mặt hổ, cưỡi con ngựa ô truy đeo 18 chiếc nhạc lớn bằng đồng, đầu ngựa kết bông đỏ, oai phong lẫm liệt, dung mạo tươi thắm, tướng Hán trông thấy giật mình nói rằng : " Không ngờ Nam man lại có tướng ngang tàn như thế ". Thục nương múa kiếm phóng ngựa xông vào đánh với tướng Hán, trống trận vang trời, chỉ một hồi chém tướng Hán đầu bay khỏi xác.

    Thục nương mỗi khi giáp trận đều cải nam trang, giáp trụ uy nghi không để cho giặc biết được hình tích của mình. Tới trận không nói một lời, xông thẳng vào tướng giặc nhanh như chớp, khí thế như núi đổ, như sao băng, vì thế thường lập được nhiều công lớn.

    Có lần Thục nương theo phò Trưng Vương ra trận cự với đại quân của đại tướng Hán là Tổ Hoài Đức. Trận ấy diễn ra quyết liệt, hai bên đều ra sức đánh, quân Hán đã núng thế, chợt chúng biết quân Trưng Vương là nữ binh liền hô nhau xông vào mà vật. Nữ binh lúng túng mất thế tiến công vừa đánh vừa lui.

    Thục nương múa song kiếm giao chiến với Tổ Hoài Đức. Đánh được hồi lâu, Tổ Hoài Đức đưa mâu hất rơi mũ trụ của Thục nương, tóc Thục nương liền sổ tung như mây tỏa. Tổ Hoài Đức lúc ấy thấy tướng nam môi thắm má hồng, ánh mắt long lanh, tóc xanh óng ả, thật muôn phần xinh đẹp yêu kiều, chợt hiểu là nữ tướng, ngây ngất mà nhìn, đương mâu hơi lỏng, bị Thục nương đưa một nhát kiếm vào sườn. Tổ Hoài Đức kinh hoàng giật ngựa chạy lùi, còn Thục nương cũng vội đem quân tìm Trưng Vương để phò giá. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com


    Sau trận ấy, Tổ Hoài Đức ngơ ngẩn tâm hồn ngày đêm mơ tưởng sắc đẹp Thục nương, bèn truyền lệnh khắp nơi, ai bắt được Thục nương thì thưởng trăm nén vàng và sẽ được tâu xin ban tước Thiên hộ hầu.

    Thục nương lui về Tiên La. Lúc ấy Vua Trưng đã tử tiết. Mã Viện đặt lại quân huyện, đánh dẹp các nơi quân ta còn đóng giữ và đem đại quân tiến sâu vào đất Cửu Chân đuổi đánh các tướng của Vua Trưng còn chống cự. Thục nương nung nấu căm hờn mưu tính dựng lại nghiệp lớn, giữ vùng Tiên La hàng chục dặm trải tám tuần trăng rằm giặc vẫn không quét nổi. Một đêm, vào ngày mười tám tháng ba, Thục nương đang đi tuần trên sông, chợt thấy Tiên La bốc lửa ngụt trời, vội cho thuyền vào bờ, vừa đặt chân lên bến, một tướng giặc rảo bước đi tới vung đao chém. Thục nương chém ngay tướng giặc đứt làm hai đoạn, phá vây chạy đi, quân Hán reo hò vang bốn phía, trong ánh lửa thấy Tổ Hoài Đức cưỡi ngựa xốc tới. Thục nương chạy đến gốc một cây tùng lớn tuốt kiếm tuẫn tiết. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Nơi Thục nương mất, mối đùn lên thành mộ, còn cây đại tùng ba ngày sau khô héo mà chết. Nhân dân lập miếu thờ Thục nương ngay dưới bóng cây đại tùng.

    Vào đời hậu Lê, vua Lê Thánh Tôn mang quân đánh Chiêm Thành, thuyền rồng ghé bến Tiên La, đóng quân lại nghỉ. Vua cho xem xét tìm miếu thờ Bát Nạn công chúa rồi gọi các cụ già cả trong làng ra hỏi chuyện. Các cụ đem sự tích Thục nương tâu bày với nhà vua. Vua Lê đem quân đánh Chiêm Thành được đại thắng, khi trở về triều bèn bao phong Thục nương làm " vạn cổ phúc thần ", để cùng đất nước hưởng phúc lâu dài, đời đời ghi nhớ công lao người nữ anh hùng suốt đời vì nước (1). Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Chú thích:
    1. Truyện trên soạn theo thần tích miếu thờ Thục nương ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, Vĩnh Phú. Thục nương được thờ ở Tiên La (Thái Bình), ở Phượng Lâu và ở Đức Bác (tức Liệp Trang, huyện Lập Thạch). Ngày sinh thần là ngày mười lăm tháng tám năm Tân Sửu, ngày khánh hạ vào mồng mười tháng ba và ngày hóa thần là ngày mười tám tháng ba.

    Theo thần tích thời hậu Lê do Hàn Lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn, và bản sao của dân Phượng Lâu, có phụ lục các triều vua bao phong cho Thục nương thì Thục nương được phong thần lần lượt như sau :

    Thời Trưng Vương sắc phong : Bát Nạn Đại tướng quân Trinh Thục công chúa.
    Thời vua Lê Thánh Tôn, sắc phong : Ý đức đoan trang Trinh Thục công chúa
    Thời Minh Mạng nhà Nguyễn, sắc phong : Dục bảo trung hưng linh phù chi thần.
    Thời Khải Định nhà Nguyễn, sắc phong : Dục bảo trung hưng linh phù Thượng đẳng thần.
    Vào thời trước, trong các ngày lễ tưởng nhớ Thục nương tức Bát Nạn công chúa, ở Vĩnh Phú có bơi trải, hát Xoan tức hát đúm, cỗ đều bày trên mâm đan lót lá.

  3. #3
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default

    NÀNG NỘI: TƯỚNG VÙNG BẠCH HẠC


    Mùa đông, tháng một, trời rét buốt. Gió bấc hun hút thổi. Ngã ba Bạch Hạc chìm trong màn mưa. Ngọn cờ đen ở trước đồn quân Hán rã xuống như bộ lông quạ dúng nước. Bọn lính đồn co ro đi lại.

    Gió bấc lạnh ngắt như luồn vào xương tủy và mưa như kim châm buốt thân thể trần truồng dầm nước của những người dân Giao Chỉ trên sông. Tóc bết trên gáy trên lưng, họ đứng trước mũi những chiếc thuyền nhỏ, dạng chân quay mình nửa vòng, vung tay, quăng lưới. Có những người trẻ tuổi, dáng khỏe mạnh, cầm lao nhảy xuống làn nước lạnh. Cá anh vũ vẩy xám màu thiếc, tròn lẳn như cá trắm, quẫy lộn trong lưới, cong mình trên những mũi lao nhỏ và dài. Xong mỗi mẻ lưới, thuyền cá bơi về bến, những tên lính Hán đứng nhận cá luôn miệng quát tháo, quất roi vun vút vào những người dân chài khốn khổ. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Gần đấy, một đám đông người đứng tụm lại với nhau, viên quan Hán khoa chân múa tay nói gì đó với họ. Đó là những chủ thuyền và những người thả mảng bị đồn Hán giữ lại để kiểm soát, thu thuế. Chắc hẳn có một người bất bình đã cãi lại, vì thấy tên quan Hán lồng lộn như con gấu bị nhốt, rồi mấy tên lính Hán túm lấy một người trong đám đông, roi gậy vụt túi bụi. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Tất cả cảnh tượng trên sông trên bến nước đồn quân Hán ấy đã được thu vào tầm mắt của hai người cưỡi ngựa trụ trên gò Mõ Phượng : một người đứng tuổi vạm vỡ, râu quai nón, mặc dù trời rét vẫn mở phanh ngực áo, và một cô gái nhỏ khoảng mười hai mười ba tuổi, gương mặt tròn trĩnh đỏ hồng không biết vì rét hay vì tức giận.

    Cô gái nhỏ đặt tên, giương cung, nhưng người đứng tuổi vội nắm tay cô gái ngăn lại : " Chớ, chớ ! Nàng Nội à, lính Hán đánh đập người Giao Chỉ ta như thế là thường. Còn nhiều cảnh thảm khốc hơn kia. Thôi, ta đi thôi ! ".

    Cô gái nhỏ tuổi giật mạnh cương con ngựa ô bờm dày tỏa bay như mây như khói, nói với người đứng tuổi : " Ông Thái à, em muốn đi tìm một con trĩ hay một chú vẹt sặc sỡ nào đem về chơi, đi nhé ! ". Hai con ngựa băm nước kiệu nhỏ, đi vào vùng rừng bên sông Lô. Người đứng tuổi nói : " Vẹt thì có, tôi biết có một khoảnh rừng có khá nhiều đấy, nhưng trĩ có mà lại hóa không. Trĩ, giặc Hán bắt phải nộp hết cho chúng. Trĩ và công của rừng Bạch Hạc này là của giặc Hán ". Cô gái nhỏ quất mạnh roi vào mông ngựa, không phải vì muốn giục ngựa phi nhanh hơn mà vì tức bực : " Nghe ông nói, cái gì cũng là của giặc Hán ! ". Người đứng tuổi im lặng một lúc rồi dằn giọng : " Ấy thế đấy, cái gì cũng là giặc Hán. Đất Bạch Hạc này tuy tướng công nhà là chủ trưởng nhưng cũng là đất của vua Hán. Không còn cái gì là của ta hết ! ".

    Người con gái nhỏ không nói gì nữa, mặt đỏ bừng bừng như người say trầu. Đường hẹp, đá mấp mô, dây rừng cuộn như khúc rắn. Hai người xuống ngựa, buộc ngựa vào một cây kháo tàn rồi bắt đầu vào rừng.

    * * *

    Châu Bạch Hạc thời thuộc Hán chính là cố đô của nước Văn Lang xưa được mở rộng sang cả bên kia sông Lô. Chủ trưởng châu là Đặng Thi Huy một lạc tướng có danh vọng và quyền thế, em ruột Đặng Thi Sách huyện lệnh Chu Diên và anh ruột của lạc tướng Đặng Thi Bằng. Tuổi đã cao mới được một mụn con gái nên hai vợ chồng Đặng tướng công nâng niu quý mến Nàng Nội không xao kể xiết. Ở trong nhà, Nàng Nội được một nhũ mẫu cùng họ trông nom. Ra ngoài, Nàng Nội bao giờ cũng đi với một thủ hạ thân tín của Đặng tướng công họ Hàm tên Thái, một dũng sĩ mà các đô vật nổi tiếng trong châu đều tôn phục. Hàm Thái gan dạ và bình tĩnh nên rất được Đặng tướng công tin cậy.

    Lên tám tuổi Nàng Nội học viết, lên mười tuổi Nàng Nội học cưỡi ngựa, mười hai tuổi bắn cung đã thạo, bắt đầu tập múa kiếm và được theo Hàm Thái ra ngoài đôi khi được theo Đặng tướng công mở những cuộc săn lưới. Nàng Nội thông minh và có sức khỏe, bàn tay nhỏ nhắn ấy cầm cương con ngựa ô cũng khéo như cầm cây bút lông nhỏ để đưa những hàng chữ mềm mại và sắc như lá lan.

    Đặng Thi Huy tự hào về con gái cũng như tự hào " Bạch Hạc của ta " như ông thường nói. Và nếu ông yêu con gái với một lòng yêu đằm thắm thì ông cũng tha thiết gắn bó với rừng núi đất đai sông ngòi Bạch Hạc. Quả hồng không hạt và cá anh vũ châu Hạc là báu vật gầm trời không đâu có. Bên kia ngã ba sông là vựa lúa của châu, vùng ruộng đồng màu mỡ. Núi và rừng là kho của trời cho : bạt ngàn gỗ quý, rồi nào củ nâu, mây, móc, giang, nứa, cây cọ xòe lá, mỗi tán lá như một vầng mặt trời xanh biếc�Vườn nhà ai cũng hàng chục cây cau cao vút và những giàn trầu lá cuộn lớp lớp sóng dày�Chim : có trĩ, có công ; thú : có voi, có hổ, cá của ba sông nhiều như lá rừng, mật ong vàng trong, thơm mùi hoa rừng, mỗi vụ lấy hàng nghìn hũ�Đó, những của quý châu Bạch Hạc. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Nơi đây, ba dòng sông lớn Lô, Thao, Đà như ba con rồng uốn khúc về chầu, chụm đầu vào nhau phun nước phù sa tưới tắm đất đai cố đô của các Vua Hùng dựng nước. Đứng ở ngả ba sông mà nhìn, sau lưng là nơi mặt trời xế bóng, núi rừng chạy dài mãi tới biên giới xa xôi, trước mắt nơi vừng đông sớm sớm lên đường từ bể ca, mênh mông một dải đồng bằng. Non sông hùng vĩ, đất nước đẹp giàu nay đã thuộc về nhà Hán. Sông núi dất đai này không còn là của người Giao Chỉ nữa rồi !

    Xưa kia, thuở Vua Hùng dựng nước, nơi Ngã ba sông bên gò Mỏ Phượng có một cây chiên đàn cao muôn trượng lá rợp một vùng, mây bay trên ngọn, chim hạc làm tổ hàng nghìn con tiếng kêu như tiếng đàn, tiếng sáo. Bến Hạc Trắng là cửa ngõ của châu thành, nơi bốn phương đổ về hội họp, người đông của nhiều, vượng khí muôn đời không dứt.

    Đối với Đặng Thi Huy, Bạch Hạc không chỉ là một châu giàu có vào bậc nhất nhì của Giao Chỉ mà còn là một mảnh đất thiêng liêng. Tất cả các lạc hầu lạc tướng đều không quên những đền đài cung điện cũ rải từ Ngã ba Bạch Hạc về Thứu Lĩnh, những đền đài cung điện ấy tuy đã bị kẻ thù phá đi nhưng vẫn còn để lại nhiều dấu tích. Đó là dấu tích thần thánh của cố đô cũ, dấu tích của dòng họ Hùng, của các Vua Hùng mở nước Văn Lang và triều đại nhà Hùng.

    Năm Nàng Nội mười ba tuổi cũng là năm Đặng Thi Huy họp cùng Thi Sách và một số lạc hầu lạc tướng mưu lật đổ Tô Định và nền đô hộ của nhà Hán. Đặng Thi Huy đem mọi công việc bàn với chính thất phu nhân Trương Thị Hàn, mẹ Nàng Nội, mà ông vẫn kính trọng vì học rộng biết nhiều và trí lự sâu xa. Đặng công được vợ giúp sức, ngầm tập hợp các lang, các trưởng trang, trùm động có nghĩa khí trong châu. Nàng Nội biết công việc của cha làm. Trong những ngày ra ngoài tập ngựa, đi săn, Nàng Nội mắt được thấy những cảnh sôi lòng cháy ruột, những nỗi khổ cực của dân chúng, lại được nghe nhũ mẫu, Hàm Thái và các cô hầu gái kể những câu chuyện về sự tàn ác của bọn quân lính Hán. Ngọn lửa căm hờn nhen nhóm trong lòng cô gái nhỏ.

    Có lần Nàng Nội giương cung bắn rụng một quả hồng treo trên cành cao và nói với mẹ : " Con sẽ bắn rụng đầu Tô Định như bắn quả hồng này ". Mẹ bảo con : " Nếu con cứ nói như vậy, chính Tô Định sẽ bắn rụng đầu con đấy !". Bà cũng thường khuyên nhắc chồng phải cẩn thận kín đáo, vì biết ông vốn tính nóng nảy và xốc nổi.

    Mưu đồ của Thi Sách và nhóm khởi nghĩa bị bại lộ. Tô Định lừa Thi Sách về Phủ thái thú và giết ngay trước tiệc. Những người dự mưu đều bị giết, bị bắt bớ tra tấn truy nã. Có lệnh triệu Đặng Thi Huy về Luy Lâu. Đặng công khi nhận được lệnh, chưa biết việc lớn đã lộ, vội sắm sửa lên đường. Khi ông vừa lên ngựa, chợt có đàn quạ bay đến lượn trên đầu ba vòng rồi sải cánh bay về phương Nam, tiếng kêu thảm thiết. Phu nhân cho là điềm gở, níu đầu ngựa mà giữ lại. Đặng công an ủi phu nhân và cử Hàm Thái theo mình cùng lên đường. Được ba ngày, Hàm Thái chợt về báo tin dữ, lập tức thu xếp đưa phu nhân cùng Nàng Nội trốn ngay đêm hôm đó.

    Mờ sáng hôm sau, viên thừa sai của Phủ thái thú và viên huyện úy Mê Linh đem lính về vây kín châu sở, thi hành lệnh của Tô Định tịch thu toàn bộ sản nghiệp Đặng Thi Huy, bắt các gia nô và nữ tì sung công, các gia tướng và lại viên của Đặng công đều bị bắt. Lại có lệnh truy nã các người họ Đặng. Đàn ông trong châu bất cứ già trẻ lớn bé nếu mang họ Đặng đều bị giết. Tô Định không cho lệnh truy nã Đặng phu nhân và Nàng Nội vì nhà Hán trọng nam khinh nữ, coi đàn bà con gái như không. Một viên quan Hán được cử về làm chủ châu. Châu Bạch Hạc náo động. Dân chúng bị giặc Hán thừa dịp sách nhiễu, khảo của vơ vét. Người họ Đặng đi trốn đều phải thay tên đổi họ. Năm ấy, Nàng Nội đã mười tám tuổi.

    Bên hữu ngạn sông Lộ có mười sáu động nhà sàn thuộc châu Bạch Hạc ở sâu trong vùng núi, mẹ con Nàng Nội nương náu ở đó. Mặc dầu giặc không có lệnh truy nã, nhưng nếu chúng bắt được hai mẹ con, chắc chắn cả hai đều sẽ bị đưa nộp Tô Định làm tì thiếp. Ẩn mình nơi rừng xa núi thẳm, Đặng phu nhân không nguôi nghĩ ngợi, uất ức mà sinh bệnh nặng, nằm liệt giường. Nàng Nội và nhũ mẫu cùng Hàm Thái ngày đêm trông nom, thuốc thang phụng dưỡng, nhưng bệnh của phu nhân là tâm bệnh, thuốc nào chữa nổi. Một năm sau phu nhân qua đời. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Chôn cất phu nhân xong, Nàng Nội nói với nhũ mẫu và Hàm Thái : " Cha mẹ ta đều chết vì giặc Hán. Thù cha mẹ không trả nổi còn sống làm gì. Ta phải đi tìm Tô Định ! ". Hàm Thái nói : " Một mình Nàng giết sao được Tô Định. Vả lại gánh lấy việc nghĩa cứu vớt dân Giao Chỉ ra khỏi vòng nước lửa, giành lại cơ nghiệp giang san của tổ tiên, làm cho vẹn chí lớn của cha mẹ, đó mới là cách xử sự của người con có hiếu ". Nhũ mẫu cũng khuyên giải Nàng Nội hồi lâu rồi ba người cùng nhau bàn việc. Sau đó, Hàm Thái chào Nàng Nội và nhũ mẫu, lên đường. Nàng Nội chia tay Hàm Thái, nói : " Tai mắt kẻ thù của chúng ta ở khắp nơi, tráng sĩ hãy giữ mình cẩn thận ".

    Một đêm, Nàng Nội ngồi trên sàn thêu khăn cùng vài người con gái bản, nhìn ra ngoài, trăng suông rải khắp núi rừng, sương khói mờ mờ, lại nghe từ xa vọng về tiếng hưu giác và tiếng suối đổ, lòng thêm ngổn ngang trăm mối. Chợt nhũ mẫu và Hàm Thái bước lên sàn. Nàng Nội mừng rỡ têm trầu rót nước, cùng nói chuyện. Hàm Thái mời Nàng Nội cùng theo mình, những người con gái bản cũng đứng dậy, cùng đi. Trăng non như vành lược bạc gài trên mây, ngôi sao Vượt sáng long lanh đứng chếch ở phía dưới, chùm sao Gấu lớn nằm ngang trên ngọn núi. Qua một khe nước thấy có ánh lửa, Nàng Nội bước tới. Có hơn mười người ngồi quanh đống lửa đều đứng dậy vòng tay chào, con gái thì chắp tay. Nàng Nội nhìn quanh một lượt, nhận ra là một vài người trong họ, các gia tướng và nữ tì của nhà, lòng cảm động, ôm lấy nhũ mẫu bật khóc, mọi người đều cất lời an ủi. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Hàm Thái nói : " Nữ chủ chúng ta tuy còn ít tuổi nhưng là người có học nhiều, có khí phách dũng lược, có thể thay kế tướng công mà dắt dẫn chúng ta. Nay tướng công và phu nhân đều bị giặc hãm hại, việc nghĩa giữa đường bỏ dở. Họ hàng chúng ta cũng bị giặc tàn hại, thân chúng ta bị giặc đày đọa. Ta phải cứu lấy gia đình, làng xóm, họ hàng máu mủ ta. Chúng ta quyết đi với nữ chủ chống lại giặc Hán ". Mọi người đều đồng tình, Hàm Thái hai tay trao kiếm cho Nàng Nội nói rằng : Đây là kiếm báu của tướng công. Khi tướng công bị giặc hãm hại, người của ta lấy được kiếm, truyền cho hạ nô, bấy lâu nay hạ nô vẫn cất giấu kín đáo. Xin nữ chủ nhận kiếm. Nàng Nội người nóng bừng bừng, đôi mắt long lanh, đỡ lấy kiếm tuốt ra khỏi vỏ. Trước ánh lửa, kiếm lòe sáng. Nàng Nội đưa mắt nhìn Hàm Thái, thấy Hàm Thái gương mặt như đúc bằng đồng, cặp mắt cháy rực chăm chú nhìn mình. Nhũ mẫu và mọi người cũng đều nghiêm trang nhìn Nàng Nội. Nàng Nội bồi hồi không biết phải nói gì trong lúc này, bèn giơ kiếm ngang mặt mà rằng : " Kiếm này quyết tắm máu kẻ thù ! ". Mọi người rập theo, đồng thanh : " Quyết tắm máu kẻ thù ! ". Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Lửa bập bùng nhảy múa. Rừng nổi gió ào ào. Trong xa vắng mênh mông, tiếng nước đổ đâu đó ầm ầm như trống trận.

    * * *

    Sông nước Bạch Hạc cuộn sóng. Đất Bạch Hạc cựa mình. Dân Bạch Hạc vùng dậy. Người già bảo người trẻ, con trai con gái nói với nhau : " Cực khổ lắm rồi. Chúng ta hãy đi theo Nàng Nội đánh đuổi giặc Hán ! ".


    Người đi xâu rủ nhau trốn từng đoàn, bỏ đấy những việc đắp lũy dựng dinh trại cho viên chủ trưởng Hán, bỏ đấy việc đắp đường cho giặc chuyên chở cống phẩm, bỏ đấy việc xây dựng đại đồn cho giặcMùa thu, những quả hồng Hạc ngọt nắng không chịu nép mình yên phận trong những chiếc sọt đan giấy đề chữ " cống " to tướng. Mùa đông cá anh vũ quẫy mình dưới nước và người dân chài nói với giặc : " Bắt mãi cá nó bỏ đi hết rồi ! ".


    Gươm giáo chạm nhau xoang xoảng trước các trại quân Hán. Khiên dập vào khiên, tóe lửa. Tù và rúc, mõ và trống nổi lên, lửa đuốc bay dài trong gió. Đêm, Bạch Hạc cháy đỏ, bừng bừng sát khí.


    Cho tới một đêm, đại đồn Hán ở Gò Mai ngùn ngụt lửa. Trong ánh lửa hiện ra trước những cặp mắt kinh hoàng của giặc một người con gái uy nghi lộng lẫy như một vị nữ thần bay đến trên một chiếc ngựa ô có bộ bờm tỏa rộng vần vụ như mây bão. Người con gái có gương mặt tròn hồng tươi như hoa sen, đôi mắt long lanh, ngực mang yếm thắm ngoài bọc hộ tâm kính bằng đồng, tay vung một lưỡi kiếm sáng quắc như tia chớp. Đó, " nữ thần Bạch Hạc " theo như lính Hán đóng ở châu thường gọi. Đó, nổi khủng khiếp của giặc, tai họa trời giáng xuống đầu bọn giặc ở châu Bạch Hạc.


    Tin nữ tướng họ Đặng mà dân chúng và chính quân lính Hán ở Bạch Hạc đều gọi tôn là " nữ thần " đã làm rung động cả châu và dám đánh phá đại đồn, chém chết viên châu úy trấn đồn, tin đó đưa về tới Phủ thái thú làm Tô Định đùng đùng nổi giận. Y đưa giấy khiển trách trưởng châu và cử ngay viên đề đốc Hoàng Sùng Chính võ quan Phủ thái thú về Bạch Hạc đánh dẹp. Hoàng Sùng Chính là một mãnh tướng trước đã từng theo Hán Quang Vũ đi bình quân Ngỗi Ngao. Hoàng có sức khỏe múa được thanh đại đao nặng bốn mươi hai cân. Tô Định thường nói : " Hoàng đề đốc là thần tướng của ta ". Nay y phải cử Hoàng đi bình châu Bạch Hạc, đủ biết y cũng không dám coi thường người con gái họ Đặng. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Hoàng Sùng Chính được lệnh, nói rằng : " Con tướng đàn bà ấy có gì đáng cho quan thái thú phải lo ngại ! Hoàng này về tới châu, chúng nghe tiếng ắt phải tự trói mình đến cửa quân chịu tội ", bèn điều ngay quân đi. Về châu mười ngày, cả châu yên tĩnh. Đề đốc Hoàng lại càng muôn phần tự đắc, cho rằng " giặc cỏ " sợ uy mình đã lẩn trốn hết, mới nói với trưởng châu để cho quân rút. Trưởng châu tiễn Hoàng ở bến sông, rót rượu mừng. Chợt vừa lúc đó, tên bắn tới như mưa, tiếng hò reo vang dậy, các tráng sĩ phóng ngựa ập tới. Một nàng con gái mặt tròn trĩnh cưỡi con ngựa đen vút tới như gió, một nhát gươm chém cụt ngay đao của Hoàng, nhát thứ hai chém xả Hoàng làm hai mảnh đổ gục xuống chân ngựa. Quân Hoàng tan vỡ. Viên trưởng châu cởi áo bỏ mũ chạy theo dọc sông, trốn thoát được về với Tô Định.

    Từ khi Nàng Nội chém Hoàng Sùng Chính, tự giữ ngôi chủ trưởng châu Bạch Hạc, uy danh rung động cả các châu huyện đất Giao Chỉ, hào kiệt các nơi cũng nhân đó theo gương mà nổi dậy. Tô Định lúng túng bị động đối phó, còn các đồn trại Hán thì run sợ, cố thủ, từ quan tới lính mỗi khi phải điều đi đánh dẹp đều nhớn nhác như gà con thấy bóng diều hâu.

    * * *

    Trưng Trắc nổi lên dựng cờ đại nghĩa, cả nước đều theo về. Huyện Mê Linh hào kiệt tuốt gươm xua giặc sạch quang. Trưng Nhị về Bạch Hạch cùng với Nàng Nội xây dựng đồn trại, luyện tập nghĩa quân. Mồng sáu tháng Giêng năm Canh Tý, Trưng chúa đem quân về tế tổ tiên ở núi Thứu Lĩnh, mồng bẩy điểm quân ở bãi Trường Sa, mồng tám, lấy Nàng Nội làm Nội các văn thư trưởng quan, đặc trách việc tiếp nhận báo cáo thư từ, thảo soạn giấy tờ, được dự bàn việc quân cơ, công việc ở châu giao lại cho Hàm Thái.

    Trưng nữ chúa hội quân ở Hát Môn phát động nhân dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị gần hai trăm năm của ngoại tộc. Bình xong giặc, lên ngôi vua, Trưng vương phong cho các tướng, Nàng Nội được phong Nhập nội Bạch Hạc Thủy công chúa.

    Mã Viện sang đánh chiếm nước ta, Vua Trưng cử Nàng Nội về cự giặc ở ngã ba Bạch Hạc (1).

    Chú thích:

    1. Nàng Nội và cha mẹ đều được thờ ở xã Minh Nông và xã Minh Phương, huyện Hạc Trí nay là thành phố Việt Trì. Ở đây còn có một cánh đồng có tên làø Đồng Cô, nhân dân nói rằng đó là ruộng của Nàng Nội giao cho dân làng để thu hoa lợi thờ cúng cha mẹ nà

  4. #4
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default

    LÊ THỊ HOA: NỮ TƯỚNG

    Ngọn đèn dầu dọc thao thức suốt đêm thâu trong căn buồng nhỏ lặng như tờ. Gà gáy giờ Tý, Lê Thị Hoa rót thêm dầu vào đĩa đèn. Nàng vén màn nhìn các con ngủ trên giường. Bốn cậu con trai tròn mập nằm ngủ mê mệt, gác cả chân lên bụng lên cổ nhau.

    Khép màn lại, nàng Hoa đăm đăm nhìn ngọn đèn.

    Lửa đèn vuốt thẳng, im phắc như một búp sen nhỏ ti.

    Chiếc màn buông cũng im phăng phắc, và chính nàng Hoa cũng đứng im bên màn không động đậy trông như một pho tượng.

    Tất cả đều yên tĩnh.

    Nhưng lòng nàng Hoa lúc này đang nổi gió nổi bão. Mai Tiến chồng nàng ra đi, hay nói đúng hơn, bị áp giải đi đã gần một tháng trời rồi ! Liệu chàng có thoát được mà về chăng ? Chúng sẽ tra tấn chàng ! Chàng sẽ ra sao ? Chắc chắn chàng sẽ nghiến răng đón chịu các nhục hình và khẳng khái đứng vững trước kẻ thù.


    Mười tám tuổi, Lê Thị Hoa về nhà chồng. Mười năm qua nàng đã sống trong tình vợ chồng đằm thắm của một gia đình nền nếp, êm đẹp. Mai Tiến, chồng nàng, chỉ hơn nàng một tuổi, là chủ một trang trại giàu có. Chàng khôi ngô tuấn tú học rộng biết nhiều và biết cả nghề thuốc nữa. Chàng giao thiệp rộng, có phong cách hào hiệp của kẻ trọng nghĩa khinh tài. Nhà chàng là nơi các khách thương và cả bọn quan chức Việt, Hán thường lui tới. Trong số khách của nhà chàng cũng có cả những hào kiệt lục lâm và những người bất đắc chí, nhà tan, vợ mất vì kẻ thù.
    Khi đứa con út của nàng vừa hai tuổi thì Tô Định, thái thú quận Giao Chỉ, có lệnh triệu Mai Tiến đến, giao cho một chức quan nhỏ ở châu Gia Lâm. Chàng Mai Tiến ba lần từ chối đều không được, phải nhận lời.

    Mai Tiến bị bắt. Phải chăng vì trong khi thi hành chính lệnh chàng đã làm trái ý Phủ thái thú để đỡ bớt nổi phiền hà khổ cực cho nhân dân ? Hay chỉ vì vợ chàng đẹp, nhà chàng giàu mà bọn quan đô hộ thì tên nào cũng hiếu sắc, tham tiền ? hay là kẻ thù đã đánh hơi biết được những phẫn uất đã bao lâu dồn nén trong lòng người trang chủ trẻ tuổi đang sắp bùng lên ?
    Nàng Hoa đăm đăm nhìn ngọn lửa đèn và cố gắng suy tính để lần ra đầu mối cái tai họa đã đè úp lên gia đình nàng. Có lẽ ba nguyên nhân đều đúng cả, và chính vì tất cả những điều đó mà chồng nàng đã bị bắt.

    Kẻ thù muốn hãm hại chồng nàng để chiếm lấy nàng và để nhổ đi một cái gai trước mắt. Tuy chưa hành động, chồng nàng vẫn ấp ủ mưu đồ chống lại ách đô hộ ngoại tộc. Mưu đồ lớn đó chàng chỉ mới bàn cùng với vài người cốt huyết trong họ Mai và với vợ chàng. Đôi vợ chồng sung sướng nhận thấy ở nhau người cùng chí hướng và họ còn đang toan tính nước cờ phải đánh.

    Giặc chưa thể biết những ý đồ lớn lao của chồng nàng nhưng điều chàng đã làm trong công viêc của mình rõ ràng không vừa ý Phủ thái thú. Thêm vào đó là nhan sắc của vợ chàng, nàng Lê Thị Hoa tươi tắn, đoan trang đầy đặn và trắng trẻo làm chúng thèm muốn.


    ...Bỗng Lê Thị Hoa nghiêng mình nghe ngóng. Tiếng chó sủa vang rồi lại thấy chúng rít lên và im bặt. Như vậy là có người quen vào sân chứ không phải khách lạ.

    Chợt có tiếng gõ cửa buồng mình.

    Có tiếng nói hồi hộp nghẹn ngào :

    - Mở cửa mau, bà ơi !

    Cánh cửa mở ngay. Cô hầu gái và người lão bộc bước vội vào, nói nhanh với nàng Hoa :

    - Ta đi thôi, có tin về rồi bà ạ, phải đi ngay !

    Ba người lặng nhìn nhau, cả ba nước mắt trào ướt má.

    Người lão bộc nói :

    - Bà hãy nhớ ngày giỗ ông con từ nay là ngày...Được cái chúng ta cũng đã sửa soạn cả rồi, chỉ còn chờ tin hư thực. Bà đánh thức các công tử dậy. Cứ về quê ngoại nhà ta đã !

    Khi nàng Hoa bước ra cổng, tay bồng tay dắt bốn con nhỏ, nàng thấy có mấy người chờ sẵn đó rồi. Một người có tuổi, mạc khách của gia đình, bước tới :

    - Thưa bà, tôi từ hình pháp ty đem tin về. Mời bà ra bến, ta đi đò tiện hơn.

    Trời khuya bàng bạc sương trắng, bao phủ dòng sông man mát, không biết đâu là bờ bến. Một tiếng chim đêm cất lên khắc khoải, con đò đã chìm khuất trong sương những người đứng lại bên bờ vẫn còn như nghe thấy những tiếng nghẹn ngào cố nén...

    * * *
    Nữ tướng ra trận, đầu chít khăn tang trắng buông dài thõng sau lưng. Ngày giỗ hết tang chồng cũng là ngày Lê Thị Hoa tế cờ khởi ngghĩa, khăn tang lúc này đối với nàng là dấu hiệu phục thù.

    Từ ngày chồng mất, Lê Thị Hoa nóng lòng chờ lúc vung kiếm cho tắm máu thù. Mọi suy nghĩ, mọi việc làm của nàng đều hướng về một đích : trả thù ! Thanh kiếm chồng nàng để lại phải được uống máu thù thỏa thích mới hả lòng nàng.

    Chồng nàng trước khi rơi đầu dưới lưỡi dao kẻ thống trị ngoại tộc đã nhắn lại nàng : " Hãy nuôi các con trai chúng ta khôn lớn và dạy chúng hoàn thành chí hướng của ta ! ".


    Lời nói ấy được các khách nghĩa sĩ của nhà nàng nói lại. Nàng nói với các nghĩa sĩ : " Không phải đợi đến lúc các con tôi khôn lớn, chính tôi sẽ tiếp tục chí hướng của Mai lang ! ". Các nghĩa sĩ vui mừng nói : " Chúng tôi nguyện theo nàng và tôn nàng làm chủ ".

    Quê Lê Thị Hoa ở trang Thượng Linh, sách Cao Linh, một làng lớn thuộc vùng đồng bằng trù phú, khoai nhiều, thóc sẵn, có chợ, đông dân. Nàng Hoa về quê mình, mộ người, mở rộng trang ấp, thuê thuyền thoi buôn bán xuôi ngược, cùng các nghĩa sĩ cày sâu cuốc bẫm, một nắng hai sương, giúp đỡ người cùng khốn, tìm đón người hào kiệt, coi của cải như bùn đất,trọn nghĩa khí như non cao. Chẳng bao lâu Thượng Linh đã trở nên một trang giàu có và nữ trang chủ họ Lê đã nổi tiếng khắp trong châu huyện, người xa kẻ gần đều luyến mộ.

    Điều Nàng Hoa mong muốn là các con nàng chóng lớn, nên người. Vợ chồng nàng sinh được bốn con trai. Vào năm chồng nàng mất, con cả Mai Đạt mới lên chín tuổi, Mai Thỏa thứ hai lên bảy, còn hai chú sau thì Mai An năm tuổi và Mai Tứ mới lên hai, còn chưa cai sữa. Bao giờ cho các con lớn được bằng sào bằng gậy mà trả thù cho bố, các con của mẹ !


    Lòng người mẹ thắt lại khi nhìn các con nhỏ dại sớm mồ côi bố. Người mẹ lo trăm việc để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa, nhưng người mẹ cũng lo chăm sóc cho các con khỏe mạnh, dạy dỗ các con như bố chúng xưa kia, rèn luyện chúng thành những con người có khí phách, biết rằng sống khom lưng cuối đầu trước giặc nước là nhục, biết căm giận trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than quằn quại dưới gót giày quân đô hộ.

    Các chiến hữu của Mai Tiến cùng Nàng Hoa gấp rút xây dựng lực lượng khởi nghĩa.

    Mỗi làng là một trại quân. Quanh làng là hào sâu với lũy tre dày vây kín. Hào kiệt các nơi tìm về. Không khí khởi nghĩa sôi sục. Dân trói đánh một số tên hào trưởng làm tay sai cho giặc. Dân không nộp thuế, nộp lương, giao người cho giặc.

    Tế chồng và tế cờ buổi sáng thì buổi chiều Lê Thị Hoa cùng nghĩa quân đánh giặc trận đầu. Chính giặc tự dẫn xác đến.


    Lê Thị Hoa cưỡi con ngựa chiến lông trắng đốm xám, đầu chít khăn trắng, tay cầm thanh kiếm của chồng nàng để lại. Các nghĩa sĩ vây quanh nàng.

    Gặp giặc, nghĩa quân hăm hở ào ào xông lên, miệng thét, giáo đâm quyết sống chết với giặc. Tướng giặc chưa kịp dàn trận mà cũng chưa kịp mở mồm nạt nộ thì đã bị nghĩa quân vây kín. Cũng chẳng biết là ai đã đâm tên tướng giặc mũi giáo đầu nữa. Hình như là có người kéo nó xuống ngựa và rồi hàng chục mũi giáo cùng xỉa xuống.

    Về sau này, người ta đặt tên cho cánh đồng nơi quân Lê Thị Hoa đã giao chiến với giặc trận đầu là đồng Mã giặc.

    * * *
    Hàng ngàn người nổi lên theo Nàng Hoa. Nghĩa quân Nàng Hoa đã làm kẻ thù khiếp sợ và lúng túng. Vùng đồng bằng Thiên Bản giàu có đã trở thành đất lửa đối với giặc. Người mẹ bốn con, người thiếu phụ xinh đẹp 31 tuổi Lê Thị Hoa cầm đầu hàng ngàn nghĩa quân đã đánh bại kẻ thù nhiều trận và bà mẹ ấy vẫn mong ngày mong đêm sao cho các con chóng khôn lớn để cùng mẹ rửa thù nhà đền nợ nước.

    Nhưng một năm sau, nghĩa quân dần lâm vào thế bị động, thế thủ. Các làng luôn bị giặc vây đánh càn quét. Vụ mùa năm đó, lúc lúa đồng còn mới uốn câu, giặc đã kéo về vây trang Thượng Linh và cho quân gặt lúa, cho ngựa xéo lúa. Nghĩa quân và dân các làng xung quanh cùng với trang Thượng Linh nổi tù và, trống, mõ, vác giáo mác, mang quang gánh liềm hái ra giành lúa với giặc. Máu dân các làng, máu giặc tưới ướt đồng. Giặc theo dân chạy lúa tràn được vào làng trang Thượng Linh kịch chiến với giặc trong từng ngõ xóm. Giặc tung thêm quân cứu viện về. Nghĩa quân và dân làng cố chống giữ. Giặc đốt phá và bắt đi hàng chục người, cả tráng đinh, đàn bà và người già cả.

    Giặc rút, để lại làng tan hoang đẫm máu và một cánh đồng lúa tơi bời.

    Từ sau " trận lúa " như dân vẫn thường gọi, quân khởi nghĩa đã bước vào một tình thế khó khăn. Lúa mất, màu cũng chẳng còn. Giặc luôn vây đánh. Giặc cấm bến cấm chợ. Tháng 10 năm ấy, bệnh sởi lan tràn khắp vùng. Làng nào, nhà nào cũng có người ốm. Tháng 10 mà làng phải ăn cháo lúa non, vì phải dè xẻn cho tới vụ chiêm.

    Lê Thị Hoa bồn chồn lo lắng. Các con nàng đều bị sởi hành hạ. Nàng vừa trông nom các con, vừa lo việc quân việc làng, mắt trũng sâu vì những đêm thức suốt và trên vầng trán thanh khiết mịn màng đã mờ in những vết nhăn của lo âu. Nàng Hoa họp các đầu lĩnh cùng bàn.


    Người nói đi người bàn lại. Điều làm Nàng Hoa vui lòng là các đầu lĩnh đều giữ vững lòng hăng hái và khí phách kiên cường. Nhưng cứu gỡ được cái tình thế tuyệt vọng này bằng cách nào thì chưa ai có mưu lược gì hay cả.
    Một nữ đầu lĩnh là em họ của Mai Tiến nói : " Cứ ý tôi thì đồng bằng trống trải không phải là đất cự giặc lâu dài. Chúng ta phải tìm đất khác mới được ".

    Lê Thị Hoa gật đầu, trầm tư suy nghĩ.

    Một tháng sau, địch dồn nghĩa quân khỏi Thiên Bản và quét vùng đồng bằng. Nghĩa quân lúc này chỉ còn chưa được một trăm người, rút về động Hoa Lư. Lê Thị Hoa cử nàng Mai Lan và một số đầu lĩnh ở lại đó lập căn cứ chờ đợi thời cơ, còn nàng mang bốn con nhỏ cùng với các nghĩa sĩ đi sâu vào quận Cửu Chân núi rừng xanh ngắt.

    * * *
    Một động nhỏ dăm bảy nóc nhà sàn lụp xụp nằm ven bìa rừng già với những người dân miền rừng xanh xao, sống với nước khe, củ rừng và thịt thú.

    Đây là rừng hoang nguyên thủy. Lim tày ôm, lá nhỏ và dày một màu xanh tốt đứng chen nhau như lau. Những cây ngát cây vang gỗ vàng, như những người khổng lồ chen bước nhau muốn vượt lên ngọn núi. Rừng dẻ xòe tán hoa vàng, mỗi mùa thu gọi đến hàng bầy vẹt sặc sỡ và những chú sóc lông xám và sáo bay. Cây lao xao ngạo nghễ vươn thân hình cao vút, da mốc trắng. Rồi nào bắp nước, rùa, trẹo, thừng mực, lem, chò, xoan đào, sài, sến, táu và cơ man nào là cây gỗ quý và các loài cây chưa có ai đặt tên và cũng chưa ai biết đến bao giờ. Con báo lông vàng pha hoa đen lim dim mắt trên cành cao. Con trăn đất lười biếng như một thân cây mục im lìm ngủ suốt ngày bên những tảng dá lớn xanh rêu. Đàn trâu rừng hàm rủ lông dài, chạy ầm ầm đến bên khe đầm mình làm đục ngầu dòng khe trong vắt. Khỉ từng đàn kiếm ăn từ rừng này qua rừng khác, kêu chí chóe, nghịch ngợm.

    Những người của đồng bằng Thiên Bản đứng trước núi rừng hoang dại cảm thấy thiên nhiên lớn lao biết bao còn họ thì nhỏ yếu. Họ như bị rừng nuốt chửng. Rừng như đe dọa và thánh thức. Nhưng người mẹ bốn con trong bọn họ nói : " Chúng ta ở lại đây và rừng sẽ che chở chúng ta ! ". Từ đó, rừng chịu thua ý chí của người mẹ, phục tùng và che chở cho người mẹ.

    Những người của đồng bằng đến đây đúng vào lúc lá khô vàng trải đầy mặt đất và hoa dẻ thơm rừng. Khi rừng rời rợi xanh lộc non và lá rừng mướt xanh mỡ màng thì một trại mới được dựng lên, nhà sàn mái lá. Người mẹ đặt tên trại mới theo họ của bốn đứa trẻ. Trại mới có tên là trại Mai.

    Người mẹ nói : " Làm sao mà ăn mãi củ rừng và thịt rừng ? Chúng ta hãy rủ dân động cũ cùng chúng ta làm nương và trồng lúa ". Mọi người vui vẻ làm theo lời người mẹ. Đất rừng trinh nguyên, đất đen tơi xốp dày mùn lá trổ mầm lúa mới xanh mơn mởn.

    Con người cũng như lúa, gặp đất tốt và được chăm bón thì lên nhanh và khỏe. Ngày lui tháng tới các con của Nàng Hoa đều đã lớn khôn.

    Năm Mai Đạt 22 tuổi thì dân châu Nga Sơn đều đã quy phục người mẹ bốn con. Các chiến hữu của Nàng Hoa từ Thiên Bản và Hoa Lư tìm đến với nàng. Họ chờ đợi hội giết giặc đã bảy năm rồi mà họ vui mừng nhận hịch của Trưng nữ chủ từ Mê Linh kêu gọi ho đứng dậy diệt thù.

    Tuân hịch hai Bà Trưng, Nàng Hoa mang quân từ núi Nga Sơn tiến ra đuổi giặc. Cả quận Cửu Chân rung động theo bước đoàn quân (1).
    Chú thích:
    1. Lê Thị Hoa người đạo Sơn Nam, huyện Thiên Bản, nay về tỉnh Nam Hà, bố là Lê Thái và mẹ là Dương Thị Tạo. Nàng nổi lên chống giặc trả thù chồng ở quê mình. Sau khi thất bại, nàng không hề nản chí, lánh vào quận Cửu Chân, huyện Nga Sơn (Thanh Hoá) kiên trì xây dựng căn cứ tập hợp lực lượng trong bảy năm để tiến theo Hai Bà Trưng đánh đổ ách thống trị ngoại tộc ngót hai trăm năm đè nặng lên dân Việt.

    Theo tài liệu Ty Văn hoá Thanh Hoá thì nơi mà Lê Thị Hoa tìm đến để khai khẩn đất hoang, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa ở Thanh Hoá là làng An Hội. Sau khi nhân dân ta giành lại được độc lập dân tộc và Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, bà Lê Thị Hoa cùng bốn con trở lại Nga Sơn để xây dựng vùng này thành một nơi dân cư đông đúc, trù phú và bà mất vào mùa xuân năm sau, ngày 25 tháng hai âm lịch.
    thay đổi nội dung bởi: Anh Huynh, 11-11-2010 lúc 04:10 PM

  5. #5
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default

    HỒ ĐỀ: PHÓ NGUYÊN SOÁI


    Hồ Công An ở trang Đông Cao là dòng lạc hầu, Tô Định gọi ra cho làm một chức quan ở quận, ông từ chối không nhận. Hồ Công An làm bạn với Bạch Thị Phương, con quan lạc tướng Bạch Thái Hoa.

    Hai vợ chồng Hồ tướng công sinh được một gái một trai. Nàng Hồ Đề là con gái đầu lòng, vóc người cao lớn, có sức khỏe hơn người, mặt tròn như vành trăng rằm, mắt sắc, lông mày đen nhánh. Em trai Hồ Đề là Hồ Hác có tài bơi lội như cá, có thể quẫy mình dưới nước hàng buổi không mệt. Bạch Thị Phương là con nhà tướng, võ nghệ tinh thông ; bà chú ý dạy các con mọi đường cung kiếm, lại đón thầy về dạy con các môn đao kích. Bà vẫn thường răn bảo các con : " Tô Định giết quan huyện lệnh Chu Diên Đặng Thi Sách là người trung nghĩa, sát hại nhiều con em dòng lạc hầu, lạc tướng. Dân ta bị giặc róc xương hút tuỷ, oán giận đầy lòng. Ngày bại vong của chúng chẳng chóng thì chầy rồi cũng tới nơi. Lúc này chính là lúc các con cần đến võ lược. Việc học tập, các con phải chuyên cần, không được trễ nải ". Hai chị em đều ghi nhớ lời mẹ dạy, sớm hôm luyện tập, mong có dịp báo đền nợ nước.

    Một hôm có đoàn buôn ngựa đi qua trang, một con ngựa đen cao lớn đuôi quét đất, bờm dày như đám mây đen, chợt lồng lên, không ai bắt nổi. Con ngựa chạy tới cổng trang trại họ Hồ, tung vó đá hất, gia nhân nhà Hồ công bắt giữ hộ những người lái ngựa mà bắt không được. Nàng Hồ Đề thấy tiếng huyên náo, chạy ra. Con ngựa đen đang chồm lên, quần nát cả vuờn hoa gần cổng trang. Một người gia nhân bị con ngựa đá hậu nằm lăn trên mặt đất, nhưng con ngựa quần dữ quá, không ai vào cứu được người gia nhân ấy đưa ra.

    Nàng Hồ Đề bèn xắn cao tay áo rảo bước đến bên con ngựa, vươn tay ấn đầu ngựa xuống. Con ngựa lồng lộn lắc đầu, bờm bay cuồn cuộn, hất tung vó sau vẫn không thoát nổi bàn tay của Hồ Đề. Hồ Đềà nhẹ nhàng nhảy lên mình ngựa, giật nhẹ giây cương. Ngựa tung vó trước, chợt ngẩng cao đầu hí một tiếng dài, vụt lao đi như bay. Một lúc sau Hồ Đề dong ngựa quay lại, nét mặt vẫn tươi tỉnh như thường. Mọi người vui mừng reo vang. Người trùm phường buôn ngựa nhìn ngắm Hồ Đề thấy tướng mạo khác thường, hỏi biết Hồ Đề là con nhà tướng, liền kính trọng dâng con ngựa đen ấy cho Hồ Đề. Hồ Đề không nhận. Người đó nói : " Nữ anh hùng phải được con chiến mã hay mới có thể vùng vẫy được trong thiên hạ. Để con ngựa này về tay quân đô hộ ngoại tộc kia chẳng hoá lại làm lợi cho chúng hay sao ? ". Hồ Đề nghe hợp ý, vui vẻ nhận ngựa, đem ba mươi tấm lụa trao lại cho người lái buôn. Người lái buôn ngựa không nhận, nói rằng : " Sau này nàng gặp dịp đắc ý chớ quên ta ".

    Được vài hôm sau, có công sai của Tô Định đến triệu Hồ Công An về quận sở, nói là để bàn việc. Hồ Công An nghi ngại, ngờ rằng câu chuyện con gái trị ngựa bất kham đến tai Tô Định nên Tô Định e sợ mà muốn tìm cách triệt ta chăng ? Hồ tướng công mới từ tạ với sứ là đang yếu mệt không đi được. Tên sai sứ hống hách đập bàn xô ghế dọa nạt, lại đòi ăn lễ. Vừa lúc đó Hồ Đề nương đi tập ngựa về. Đứng ở cửa nghe một lúc, mặt giận đỏ bừng, lông mày dựng ngược, đôi mắt lóng lánh, nàng xô cửa bước vào, túm ngay lấy ngực tên quan của Phủ thái thú, nàng chỉ mới tát cho nó hai chiếc, tên giặc kia đã hộc máu nằm dẫy trên mặt đất. Bọn lính đi theo cũng bị Hồ Hác mới mười lăm tuổi đánh cho chạy tán loạn. Ông bà Hồ Công An vội mắng hai con, xin lỗi bọn quan quân Tô Định, dọn cơm rượu cho chúng và đưa đồ lễ về cho Tô Định.

    Sau khi tên sứ của Tô Định hậm hực ra về, ông bà Hồ Công An nghiêm khắc răn mắng hai con. Ông lo nghĩ về việc Tô Định đang để ý hại mình lại nhớ mối thù Thi Sách và các chiến hữu của mình bị giết, uất ức thành bệnh nặng, vài tháng sau ông mất. Làm tang cho chồng xong, Bạch Thị Phương biết Tô Định không thể nào để mẹ con mình sống yên ổn mới gửi lại trang trại, cùng hai con và một số gia nhân thân tín tìm chốn ẩn náu.

    * * *
    Động Lão Mai nằm giữa một thung lũng lớn mùa xuân trắng hoa mai, mùa hè vàng quả chín. Những quả mai vàng thơm mát rụng đầy đất đầy khe chẳng ai buồn nhặt. Hơn ba chục nóc nhà sàn rải rác dọc một con suối lớn, suốt ngày đón gió vì thung này nằm dọc hướng Đông Nam. Động Lão Mai là một động lớn trong số 72 động của núi rừng Thiên Sớ, ở đây nhà nào cũng có trâu đàn, nghé bầy, có gà đầy sân, lợn dăm bảy con thả rông quanh nhà. Dân phát nương tra ngô và lúa. Vùng này có nhiều thú rừng nên trâu không được thả xa, cho đeo mõ và thả gần động. Nhà nào cũng có nỏ và giáo, mùa đông lấy da thú làm chiếu nằm. Dân động thật thà, hiếu khách nhưng tính tình hung tợn, ưa sự đánh nhau với các động khác, thường chỉ vì một con thú săn mà đến đổ máu. Con gái cũng phóng lao bắn nỏ như trai.
    Chúa động Lão Mai là một nữ tù trưởng họ Hoàng, tuổi đã ngoài 60, người ốm yếu, theo tục lệ chồng mất được cầm quyền thay chồng vì không có con. Nữ chúa động tin cậy thương yêu ba mẹ con Bạch Thị Phương. Bà nhận Hồ Đề và Hồ Hác làm con nuôi, giúp cho ba mẹ con và các gia nhân một chiếc nhà sàn năm gian, lại cấp cho trâu, lợn làm vốn liếng.

    Một hôm, bà Bạch Thị Phương đem việc lớn bàn với các con : " Chúng ta ở đây là nơi hẻo lánh, giặc Hán không với tới, lại được dân tin yêu, đó cũng là điều đáng mừng. Nhưng chúng ta đâu phải tìm chốn yên thân, mà phải tính đến mưu đồ đại sự. Vậy các con có kế sách gì hay nói cho mẹ nghe ". Hồ Hác hăng hái thưa : " Dân động đều thạo tên nỏ lại ưa sự đánh nhau. Ta cứ kể rõ đại nghĩa cho họ rồi kéo quân lên đánh phá châu lỵ, kế bắt trói ngay thằng châu úy lại, thế là các động đều quy phục theo ta. Việc lớn gì chẳng thành ? ". Bà Bạch và Hồ Đề cười. Hồ Đề suy nghĩ một lúc rồi thưa mẹ : " Em con nói cũng có phần đúng. Thế nào mà chả có lúc trói châu úy, phá châu lỵ. Nhưng đó là việc về sau. Con nghĩ lúc này phải kết giao hào kiệt, xây dựng nghĩa quân, không biết ý mẹ thế nào ? ". Bà mẹ nói : " YÙ con rất hay. Vùng Thiên Sớ này đất rộng và hiểm, dân thuần hậu chất phác, phóng khoáng không chịu mọi sự ràng buộc cho nên giặc Hán cũng không gò thắt được. Đó là những điều thuận lợi cho ta. Mẹ thấy dân các động đều thiếu muối ăn, phải đốt nứa mà ăn tro để lấy chất mặn, lại thiếu cả chỉ thêu và dao, cuốc. Vậy chúng ta phải mở con đường vượt qua Tam Đảo trở về bên quê đem những thức đó về bên này rồi dựa vào đó mà đi lại các động, con nghĩ thế nào ? ". Các con đều vui mừng, khen mẹ tài giỏi mưu trí. Ba mẹ con cùng cười. Bấy giờ Hồ Hác nhận cùng gia nhân trở về bên quê đem hàng sang Thiên Sớ. Còn Hồ Đề cùng hai gia nhân gái sẽ đem hàng đi đến các động đổi gạo, lấy gà để thăm dò tình hình và kết giao với các chúa động.

    Hồ Đề dong con ngựa ô thồ muối và các thứ hàng đi đến các động, vừa đổi vừa biếu, thăm hỏi tình hình các động. Nàng được biết trong số 72 động chúa, quá nửa là có điều bất bình với giặc Hán. Chỉ có một số nhỏ làm tay chân cho giặc, còn lại một số thì giặc bảo sao làm vậy, cốt được việc cho yên thân. Hồ Đề có một vẻ đẹp đoan trang, nàng lại tôn trọng phong tục các động, lại biết dân các động vốn ưa người vũ dũng nên cũng không dấu tài nghệ của mình, có khi nàng theo họ săn hổ rượt nai, có khi cùng họ ném lao bắn nỏ. Dần dần nàng được các chúa động mến phục và dân các động tin yêu. Từ đó, nàng chọn người để kết giao, bàn việc lập căn cứ và không tuân theo những lệnh bắt phu nộp cống của giặc Hán.

    Cũng nhờ đi lại quen biết các chúa động, Hồ Đề đã ngăn được nhiều cuộc xung đột đẫm máu vẫn thường xảy ra giữa dân các động thuộc các tộc khác nhau. Hồ Đề lại tổ chức ở Lão Mai một đội nam binh và một đội nữ binh, dạy dân cày vỡ các tràn ruộng độc để lấy thêm lương thực. Trước kia, dân các động phải đi hàng ngày trời về châu lỵ mua dao cuốc. Những dụng cụ bằng sắt mà hư hỏng là đều vứt bỏ không dùng nữa. Nay, Hồ Đề lập một tổ lò rèn ở Lão Mai với hai bễ rèn. Các động xung quanh đến Lão Mai rèn dao cuốc, sửa chữa các dụng cụ hư hỏng, rồi lại rèn mũi mác, đầu lao. Trước kia, lò rèn chỉ có ba gian bên suối, sau lại nối thêm hai gian nữa, thêm một bễ rèn giao cho một người cháu của bà chúa động. Người này cũng tinh khôn và chịu khó, được Hồ Đề và Hồ Hác hướng dẫn tận tình. Hồ Đề, Hồ Hác ân cần tiếp đón mọi người, lấy năm gian lò rèn bên suối Mai làm nơi gặp mặt với những người có chí khí, cùng mưu những việc khuấy nước chọc trời.

    Công việc đang thuận chiều như ngọn lửa mới nhen được gió thì bà Bạch Thị Phượng bị bệnh mất. Hai chị em Hồ Đề vật vã khóc lóc. Dân động Lão Mai ai cũng thương tiếc bà mẹ hiền từ. Nhiều chúa động và những người quen biết xa gần đến viếng tang. Năm ấy Hồ Đề vừa tròn hai mươi tuổi.

    Một đêm, bà chúa động Lão Mai cho vời Hồ Đề đến mà nói : " Nhân dân ta đồn rằng ai bắt được con voi trắng chéo ngà của núi rừng Thiên Sớ thì sẽ được làm vua Thiên Sớ, con có nghe chuyện ấy không ? ". Hồ Đề gật đầu thưa : " Đó là lời ngoa truyền mà thôi, người ta còn nói đó là " voi thần " nữa kia. Nhưng đã ba năm nay con ở đất này đi đã nhiều động, chưa thấy chúa động nào nói đã từng được nhìn thấy voi trắng chéo ngà bao giờ ". Bà chúa động hạ thấp giọng : " Có, chính chồng ta được nhìn thấy nó rồi. Và những người theo chồng ta được nhìn voi trắng hãy còn. Con voi đó không có đàn, không rõ nó ẩn náu ở đâu. Thỉnh thoảng cũng có người gặp nó nhưng chưa ai săn được. Vả lại dân Thiên Sớ vẫn tin rằng đó là bộ hạ của thần núi, cũng không ai dám động đến nó ! ". Hồ Đề lại hỏi : " Đã tin là voi của Sơn thần sao còn nói bắt được nó sẽ làm vua Thiên Sớ ? ". Bà chúa động mỉm cười : " Phải, không ai dám săn nó, nhưng nếu nó theo ai thì sao ? Nếu như Sơn thần cho nó theo một chúa động nào, chúa động đó sẽ được cả Thiên Sớ thần phục, tôn làm đại vương ". Bà im lặng một lúc, nhìn sâu vào mắt Hồ Đề : " Ta già rồi, cả động này không có ai sánh với con được. Dân các động cần có một người cầm đầu của mình chứ không phải là tên châu úy người Hán tộc hung ác và tham bạo. Họ Dương chồng ta vốn không biết luồn cúi, vẫn bị bọn chúng hiếp đáp. Chồng ta chết, chỉ tiếc không có con trai để rửa nhục cho dòng họ. Con ạ, dân các động phải có một người làm chủ. Còn con voi trắng chéo ngà... ", bà nghé mặt sát vào mặt Hồ Đề : " Voi trắng chéo ngà đã về trên đất đai của động ta rồi ! ".

    * * *
    Ngược con suối Mai chảy dọc theo thung lũng, đi lên khoảng chừng sáu dặm có một thác nước từ đỉnh một ngọn núi cao có tên là núi Sọ đổ ra, ngày đêm tiếng nước reo vang như trống trận, dân gọi là thác Bạc. Từ bờ khe lên tới thác phải mất một buổi leo một dốc đá gần dựng đứng, người leo dốc luôn phải ngửa mặt lên, vì thế có tên là dốc Cài Hàm. Mé trên thác Bạc có một hang lớn nhưng ở dưới nhìn lên không sao thấy được. Nước nguồn từ hang này đổ ra tuôn thành dòng thác. Hang không có tên. Xung quanh hang là rừng già xanh ngắt bốn mùa mây phủ, không từng có dấu chân người. Con voi trắng khổng lồ có đôi ngà bắt chéo vẫn tìm đến hang đầu nguồn này để tránh cái oi bức của mùa hè.
    Các chúa động tin rằng người nào thu phục được con voi trắng chéo ngà là người ấy được Sơn thần chọn làm chúa các động và vì thế một người nào bắt được con voi ấy sẽ được các động một lòng tôn xưng làm Thiên Sớ đại vương và dốc lòng thần phục.

    Hồ Đề cùng một số những trai tráng và nữ binh gan dạ khỏe mạnh nhất trong động đi xem xét dấu của " voi thần " và tìm hiểu giờ giấc nghỉ ngơi của nó, những đường nó hay đi lại, những chốn nó thường đến tìm ăn...Sau bốn ngày dò xét, Hồ Đề quyết định mở cuộc vây bắt " voi thần ". Nắm chắc phần thắng lợi và có dụng ý sâu xa, nàng thưa với bà chúa động cho người đi mời các chúa động xa gần đến dự hội đón " voi thần ". Tin ấy đưa đi các chúa động đều giật mình kinh ngạc và sắm sửa vội vàng đến động Lão Mai.

    Động Lão Mai suốt ngày đông khách. Khách đến, mang theo nhiều thức quý để mừng chủ nhân : vòng đeo tay bằng bạc trắng ngần, hạt đeo cổ bằng ngọc trong suốt, sừng tê lóng lánh, ngà voi trắng phau, hổ phách vàng trong như giọt mật ong. Mùa này, ở Lão Mai quả mai nở vàng rừng, rừng mai dâng quả mời khách. Tiếng kèn tiếng trống vang rộn từ sáng sớm tới gần nửa đêm. Mọi người đều chờ đợi một điều kỳ diệu : ngắm " voi thần " và người thu phục được con voi khổng lồ đó.
    Suốt ngày hôm ấy, Hồ Đề, Hồ Hác cùng những người theo săn vẫn bám sát voi. Tới nửa đêm, đoàn người thắt vòng vây quanh hang Thác Bạc...

    Khi mặt trời đỏ rực vừa hiện lên ở đằng Đông trên những dải mây màu da cam và màu vàng lửa, một hồi trống đồng vọng đến rồi có tiếng tù và rúc lên như xoáy vào lòng người. Mọi người ùa ra đứng ở hai bên khe, trên con đường chạy dọc bản, trên các sân sàn, hồi hộp nhìn về phía thượng nguồn. Từ phía đó, một đoàn người đang đi đến...Các dũng sĩ nam và nữ cầm giáo dài mang nỏ lớn vây quanh một con voi trắng khổng lồ trông đồ sộ như một quả núi đang di chuyển và họ vừa đi vừa múa giáo theo nhịp trống đồng. Hồ Đề ngồi trên lưng voi, tươi cười hớn hở, tay cầm lao dài tay cầm búa bạc, áo xanh yếm đỏ, rực rỡ như mặt trời. Mọi người hò reo mừng rỡ, chúc tụng Hồ Đề, đều tôn xưng Hồ Đề là thần nữ. Từ ngày đó, uy danh Hồ Đề lừng lẫy khắp các động.

    Mùa đông năm ấy, nữ chúa động Lão Mai mất, dân động cùng một lòng tôn Hồ Đề làm chúa. Mùa xuân năm sau, các chúa động họp nhau ở Lã Mai, cùng tôn xưng Hồ Đề là Thiên Sớ đại vương.

    Thiên Sớ đại vương mới 21 tuổi đã phải lo lắng mọi công việc của 72 động, lo đối phó với giặc Hán, lo lương thực và khí giới, nhất là đại vương lo hòa hợp các động cùng nhau một dạ một lòng.

    Tới mùa xuân năm sau, châu úy đem quân " tiễu phạt " động Lão Mai. Hồ Đề phục quân 3 động đón địch ở đường hẻm Trâu Luồn, đánh cho địch một trận thất điên bát đảo. Châu úy đem tàn quân chạy về châu lỵ, cấp báo về Phủ thái thú. Phủ thái thú điều quân đến Lão Mai cũng bị Hồ Đề đánh cho đại bại. Viên châu úy bị bắn từ trên ngựa ngã nhào xuống đất. Quân ta ùa ra bắt lấy, chặt đầu làm lễ tế cờ. Từ đó 72 động đều theo về với Đại vương. Phủ thái thú cử châu úy khác về thay trị nhậm đất Thiên Sớ, và giục giã phải cử binh dẹp cho bằng được " Giặc Lão Mai ". Nhưng rừng núi mênh mông, giặc tới đâu nghĩa quân đều biết, giặc có bao nhiêu quân số nghĩa quân đều hay, nghĩa quân đón dọc đường, núp trong rừng mà bắn ra rồi múa đao áp sát đánh giáp lá cà, không trận nào không thắng.

    Danh tiếng Hồ Đề là " vua Thiên Sớ " bay khắp các châu quận, ngày càng có nhiều hào kiệt các châu tìm đến xin theo Hồ Đề.

    Khi được tin Hai Bà Trưng tụ nghĩa ở Mê Linh, Hồ Đề họp các chúa động, nói : " Ta ở một vùng rừng núi này chỉ có giữ mà không có đánh, lập giang san riêng ra khỏi vòng ràng buộc của giặc nhưng không quét được giặc, như vậy vẫn là không thoát khỏi lưới giặc. Nay có Trung nữ chủ khởi nghĩa ở Mê Linh, anh hùng bốn phương đều hướng về nữ chủ. Nữ chủ là cháu ngoại các Vua Hùng, là vợ góa của Đặng công Thi Sách, quan huyện lệnh Chu Diên. Nay Trưng nữ chủ đã truyền hịch cứu nước đi khắp các nơi, ta phải theo về với nữ chủ mới thu phục được giang sơn, cất được ách áp bức của giặc Hán ". Mọi người đều cho là phải, chọn ngày tốt làm lễ tế cờ ra quân. Các động đều hăng hái theo Hồ Đề, đeo nỏ cắp giáo đợi giết giặc. Hồ Đề cầm cờ xanh cưỡi voi trắng cùng hai nghìn nghĩa binh các tộc miền núi về Mê Linh hội quân với Trưng nữ chủ

    Trưng nữ chủ gặp Hồ Đề, thấy Hồ Đề khí phách anh hùng, tuổi còn trẻ mà thu phục được các động miền núi rừng Thiên Sớ, giang sơn một cõi, nữ chủ hết lời khen ngợi, đem việc lớn bàn với Hồ Đề đều được vừa ý. Nữ chủ thương Hồ Đề là con của lạc hầu Hồ tướng công, người đã dự mưu cùng chồng mình chống Tô Định nên coi Hồ Đề như ruột thịt. Hồ Đề kính phục dâng voi trắng lên nữ chủ. Nàng đem quân miền núi theo Hai Bà về Hát Môn tế cờ.

    Hồ Đề được Trưng nữ chủ phong chức Phó nguyên soái đứng đầu hàng nữ tướng, ngang chức với Bà Trưng em. Hồ Đề ba lần từ chức không dám nhận, Trưng nữ chủ nhất quyết giao ấn, Hồ Đề phải vâng lời.

    Trưng nũ chủ tự lĩnh Đại nguyên soái, thân chỉ huy các đạo quân tiến đánh Tô Định rất gấp. Hồ Đề hạ lệnh cho quân lấy gạo nếp giã bánh dầy làm lương khô.

    Quân các bản các động theo Phó nguyên soái Hồ Đề tới gần một vạn người.

    Hồ Đác là em Hồ Đề được giao chức Điều vát tướng quân chuyển vận binh lương ở miền bể. Người tráng sĩ đã tặng Hồ Đề con ngựa đen tìm đến theo Hồ Đề được phong phó tướng dưới quyền của Hồ Hác. Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com Truyện Nữ tướng thời Trưng Vương - Nguyễn Khắc Xương copy từ Diễn Đàn Tu Chân Giới TuChanGioi.com

    Khi nước đã yên, Bà Trưng lên ngôi vua, Hồ Đề được phong công chúa, trước gọi là Đề nương công chúa sau cải là Đào nương công chúa.

    Mã Viện vâng lệnh Hán đình cầm quân xâm phạm nước Nam. Vua Trưng hạ lệnh các đồn ải phải nghiêm phòng cẩn mật, lại lệnh cho chặn đánh giặc ở các ngả. Phó nguyên soái Hồ Đề ra quân, đánh trận nào, giặc thua trận ấy, có lần đại chiến với Mã Viện đuổi Mã Viện chạy dài ở Cao Bằng. Mã Viện còn đang cơn hốt hoảng, Hồ Đề gấp tiến quân không cho giặc nghỉ, bao vây Mã Viện.

    ...Sau khi Trưng Vương đã tử tiết, Hồ Đề vẫn còn cầm quân chống giặc. Có lần tìm về nơi Trưng vương mất để viếng mộ phần, Hồ Đề không phòng bị gặp Mã Viện đánh bất ngờ. Hồ Đề không chống cự lại được với quân Mã Viện lớp lớp vây kín, mới cố đánh mở đường chạy tới bờ sông Nguyệt Đức bến Tân Thứ. Trước mặt sóng nước mênh mông, sau lưng giặc đuổi sắp tới, Hồ Đề hét to một tiếng, nước rẽ ra đón cả người lẫn ngựa.

    Hồ Hác binh đơn thế yếu, nghe tin chị đã tử tiết cũng tử tiết theo, lấy nước làm nơi gửi thân.

    Chú thích:

    1. " Thiên Sở " nói trong truyện trên ngày nay là tỉnh Thái Nguyên. Hồ Đề và Hồ Hác đều được thờ ở đền Nhà bà và đình thôn Đông Cao, xã Tráng Việt, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú.
    thay đổi nội dung bởi: Anh Huynh, 11-11-2010 lúc 04:09 PM

  6. #6
    Tham gia ngày
    Aug 2007
    Tuổi
    39
    Bài gởi
    545
    Thanks
    4
    Thanked 9 Times in 7 Posts

    Default

    XUÂN NƯƠNG: TRƯỞNG QUẢN QUÂN CƠ



    Châu Đại Man là một châu lớn, đất có núi đồi sông bãi, dân có vùng thấp vùng cao. Vùng cao ở nhà sàn, cơm nấu trong ống tre, phóng tên săn thú, đốt rừng làm rẫy. Vùng bãi và đồng, cấy lúa nước, chăn tằm trồng dâu, quăng chài thả lưới. Chủ trưởng châu tên là Sát, dòng họ Hùng, lấy Đinh Thị Hiên Hoa là người đẹp ở rừng núi, con nhà lang có quyền thế trong châu. Hiên Hoa được Hùng Sát yêu quý, lập làm chính thất, bảy lần có mang đều sinh con giai, người nào cũng khỏe mạnh đẹp đẽ.

    Năm ấy, nhân buổi trăng hè sáng tỏ, bà Hiên Hoa bảo các nữ hầu hát múa làm vui. Đinh Thị Hiên Hoa mặc áo mỏng, gõ phách hát theo các nữ tì rồi cùng uống rượu ăn bánh, vui chơi ở lầu cao phía Đông. Tới canh ba, hương hoa thơm ngát, gió mát hây hây thổi về, ánh trăng lấp lánh lá cành. Hiên Hoa tựa mình vào bao lơn thiu thiu ngủ ; Chợt một người con gái xinh xắn khoảng mười ba tuổi, mặc áo đỏ cài thoa vàng, cưỡi mây hồng, mây tía hạ xuống trước lầu. Hiên Hoa mừng rỡ ôm lấy người con gái, dồn dập mà rằng : " Em ở đâu lại đây, ở đâu lại đây ? Tốt thay ! Đẹp thay ". Người con gái mỉm cười nói : " Con được Trời cho xuống làm con phu nhân đấy ! " nói đoạn, ngoắt mình chạy đi ; Hiên Hoa vội đuổi theo chẳng ngờ bị vấp ngã, giật mình tỉnh giấc mới biết chỉ là mộng, tự nghĩ mình vì quá ao ước nên mộng thấy. Hay có thể ta cũng sẽ được một người con gái xinhh đẹp như trong mộng thật chăng ? Đang cơn bồi hồi nghĩ ngợi thì chủ trưởng đến lầu. Hiên Hoa đem câu chuyện mộng vừa qua kể lại với chồng. Ông chỉ cười, hai vợ chồng cùng tựa lầu ngắm trăng đón gió, truyền cho các thị nữ được lui về nghỉ.

    Mồng hai tháng giêng năm Giáp Thìn, bà Hoa sinh được một gái, nhân đẻ vào mùa xuân, mới đặt tên con là Xuân, lại đặt hiệu là Hoa. Sinh con được một trăm ngày, Hiên Hoa mất. Vị chủ trưởng tìm người bế ẵm và cho Xuân bú sữa, nhưng Xuân không chịu bú một người nào, bố và các anh phải ép nước mía thay sữa bón cho Xuân. Tới khi đầy tuổi tôi, Xuân lại không chịu ăn cơm, chỉ thích củ mài và nước mía.

    Họ Hùng giữ ngôi chủ trưởng châu Đại Man cha truyền con nối, có ân có uy, truyền tới Hùng Sát là đời chủ trưởng thứ mười, trong nhà có mười chiếc trống đồng của mười đời chủ trưởng. Hùng Sát tính nghiêm mà nhân, thường lo nghĩ việc nước, nung nấu mối thù giặc Hán cướp cơ nghiệp họ Hùng, căm giận Tô Định càng ngày càng hống hách tham tàn. Một hôm Hùng công cưỡi ngựa dạo chơi với người con giai trưởng là Hùng Thắng, nhân lúc vắng vẻ, bảo con rằng : " Ta có bảy con trai đều có khí phách anh hùng, con là trưởng con sẽ nối nghiệp cha mà cầm quyền ở châu. Con có muốn cúi đầu khép áo mãi mà thờ Tô Định chăng ? " Người con trưởng vòng tay xin cha chỉ bảo. Hùng công thong thả nói : " Tổ tiên xưa dựng nước biết bao khó nhọc, nay để dị chủng dày xéo giang san gấm vóc, thực đáng đau lòng. Ta già rồi, mỗi khi nghĩ tới lúc gặp gỡ tổ tiên không khỏi hổ thẹn. Đặng công Thi sách là huyện lệnh Chu Diên đất rộng dân đông, uy quyền lẫm liệt, chính là hào kiệt ở đời này. Người ấy có chí lớn xoay chuyển thời thế đấy, con hãy nhớ lấy ".

    Được ít lâu sau, vào ngày mười hai tháng mười, Hùng công mất, con trưởng lên nối quyền, giao các em lĩnh chức thổ quan cùng trông nom đất đai của tổ phụ. Năm ấy Xuân nương mới mười ba tuổi.

    Vị chủ trưởng mới thương dân lo việc, được các em kính phục vâng lời, dân chúng thuận theo. Hùng Thắng chăm sóc thương yêu Xuân nương quý em như vàng. Xuân nương càng lớn càng xinh, đàn hay vẽ đẹp, thông minh tuyệt vời, đọc sách chỉ một lượt là thuộc. Hùng Thắng thấy em nghiêm nghị đoan trang, ít cười ít nói, nghĩ rằng em buồn vì nỗi sớm mồ côi cả cha mẹ nên lại càng thương. Nhân nghĩ tới việc lớn, Hùng Thắng đem các môn võ nghệ cùng những cách bày binh bố trận truyền dạy cho Xuân nương, lại thường nói với các em rằng : " Múa giáo giương cung, luyện tập sĩ tốt, đó là việc của người hào kiệt buổi này ". Tới năm Xuân nương mười sáu tuổi, tưoi đẹp như đoá hoa hồng, đường cung mũi kiếm đều tinh thục thì Hùng Thắng bị Tô Định sát hại.

    Nguyên là Hùng Thắng đã bí mật liên kết với Thi Sách huyện lệnh Chu Diên cùng mưu chống Tô Định. Thi Sách tiếp Hùng Thắng ở tư dinh cắn ngón tay rỏ máu vào chén rượu rồi chia đôi cùng uống, thề không đội trời cùng giặc Hán. Mọi viêc làm của Thi Sách bị Tô Định dò biết. Định thảm sát các người dự mưu với Thi Sách. Hùng Thắng bị Tô Định bắt, mắng chửi Tô Định cho tới lúc chết.

    Bốn em trai của Hùng Thắng bị giặc bắt giết, chỉ có hai người trốn thoát được cùng Xuân nương. Ba anh em cùng bàn mưu kế, quyết không chịu thua Tô Định, phải trả món nợ máu cho anh em được ngậm cười nơi chín suối. Xuân nương khẳng khái nói : " Hai anh hãy tìm chốn ẩn mình chớ để giặc bắt được, hãy vào hang động như con cọp chờ lúc múa vuốt, hãy như con giao long ẩn mình nơi đầm hồ chờ lúc bay lên thét gió gào mưa. Nợ nước thù nhà, em xin cùng các anh gánh vác. Em là phận gái, giặc không để ý, lại ít ra ngoài không mấy người biết, có thể đi lại trong châu kết giao với các hào kiệt được ! ".

    Xuân nương bèn cắt tóc, khoác áo nâu sòng, cải tên đổi họ, một chiếc tay nải bên vai, nay làng này mai làng khác, chú ý tìm những người có gan có chí để kết bạn cùng mưu việc báo quốc.

    Có ngày Xuân nương cùng vài sư nữ trẻ tuổi đều là khách anh hùng đi tới trang Tuế Phong thấy một cảnh chùa hoang vắng ở bên trên gò cao, đứng sau chùa có thể nhìn thấy khúc sông quanh co uốn lượn, xung quanh chùa cây cối rậm rạp u tịch. Xuân nương nói với dân làng cho được ngụ lại chùa này để thắp hương niệm Phật. Cảnh chùa dần trở nên sầm uất, thiện nam tín nữ các nơi đến nghe giảng kinh, xin cúng giàng, làm chay, tuần rằm mồng một, những người có gan có chí cũng nhân đótìm đến gặp Xuân nương... Xuân nương dựa vào cửa thiền để kết giao hào kiệt.

    Xuân nương xinh đẹp mà nghiêm trang, hay làm phúc, cứu giúp người nghèo, cưu mang kẻ khó, đức cao như núi rộng như biển không ai là không kính trọng. Xuân nương tuổi mới hai mươi mà ai khi gặp nàng, cũng chắp tay niệm nam mô, tôn xưng nàng là " mẹ ". Xem như vậy, ta cũng thấy được lòng dân quy thuận theo Xuân nương như thế nào.

    Người các nơi mang thù với giặc theo Xuân nương lúc này đã tới trên một trăm, sớm tối ra vào cửa thiền giả cúng bái tụng kinh niệm phật để được Xuân nương chỉ bảo. Làng ở bãi gọi là trang là sách, làng ở núi gọi là động là mường lần lượt nhóm lên những nhóm nghĩa quân. Họ thường chờ lúc trời tối đêm khuya, thường tìm chốn hang sâu đồng vắng cùng nhau bàn bạc, cùng nhau luyện tập. .
    * * *
    Trưng Nhị nương là em ruột Trưng nữõ chủ huyện Mê Linh, cùng với Trưng nữ chủ đứng lên tập hợp dân chúng Giao Châu chống Tô Định, giành lại nước. Trưng Nhị nương thân đến gặp Xuân nương, đưa hịch cứu nước cho xem, nói rằng : " Giao Châu đang rung chuyển, nhân dân khổ cực đã vùng dậy, ngày tận số của bọn thống trị dị tộc sắp tới ! Chúng ta không nên giấu mình kín tiếng nữa ! Nàng hãy nêu cao danh nghĩa của cha anh dựng cờ lớn, gióng trống chiêu binh, chờ lệnh cất quân đuổi giặc ". Lúc này, Nàng Nội châu Bạch Hạc vừa chém đầu Hoàng Sùng Chính lên cầm quyền trưởng châu. Tô Định bàng hoàng hoảng hốt như sét đánh bên tai. Nhân dân khắp nơi đều vui mừng hăng hái. Xuân nương biết thời cơ có thể đứng lên được, vâng lời Trưng Nhị nương, rồi tìm hai anh bàn việc khởi nghĩa.

    Ngày mồng mười tháng giêng, Xuân nương họp trên một nghìn nghĩa binh ở Hương Nha, tế cờ điểm quân. Nữ chủ súy ngồi trên sạp cao, đầu bịt khăn vuông, mình mặc áo bào thêu chỉ vàng, chỉ bạc, chỉ tía, chỉ hồng là áo quý của các lang mường dâng, sau lưng có sáu nữ binh cầm gươm đứng hầu, uy nghi lộng lẫy như vầng mặt trời mọc. Nữ tướng tuyên đọc lời hịch của Trưng chúa kể tội giặc Hán tham tàn bạo ngược, kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên đuổi giặc, đọc xong hịch liền phiên chế đội ngũ, cử các đầu lĩnh. Các mường vùng cao có bảy trăm ba mươi người về ứng nghĩa, Xuân nương chia làm mười bộ, mỗi bộ ba mươi sáu người và một quản bộ. Các quản bộ được gọi là thần quan, giao giữ các công việc như sau : thần quan coi việc cơm nước, thần quan coi việc sát sinh mổ trâu giết lợn, thần quan coi việc rượu, thần quan coi việc nhạc và múa, thần quan coi việc các đội tiền quân, hậu quân, hữu quân và một thần quan coi việc trung quân.

    Quân chia 6 đội ; trung quân là nữ binh, tiền quân hậu quân, tả quân, hữu quân đều là nam binh. Quân cung thủ có một trăm hai mươi tay nỏ. Có một phó tướng đốc lĩnh cả bốn đội quân nam. Chức ấy Xuân nương giao cho anh thứ bảy của mình là Hùng Long, lại cử anh thứ sáu là Hùng Hoàn coi giữ việc quân lương và trông nom các trạng các động.

    Dân chúng các nơi nô nức về dự hội. Người ở vùng cao mang mật ong, thịt hươu thịt nai, tên tẩm thuốc độc về, người ở bãi sông mang gạo, cá và muối đến. Các lang mường, trùm động, trưởng trang, người cưỡi ngựa, kẻ đi chân, mang trầu cau, khiêng trống chiêng gặp nhau đều vui mừng hớn hở.

    Các thần quan ai lo việc nấy. Người coi rượu lấy ống bương múc rượu, tiện vầu, tiện nứa làm chén uống. Người coi cơm nước cho lấy tre đan thành phên, lót lá chuối lá ngô đồng mà bày thịt, gạo tẻ nấu bằng nồi đồng, gạo nếp nấu trong ống tre. Quân đánh trống lớn trống con, thổi kèn thổi sáo, gõ mõ gõ phách, cùng nhau múa hát diễn các trò vui. Dân Tiền Áo hai tay cầm mau co múa nhảy, gọi là múa Mo, dân động Cao nhún chân vẫy tay theo tiếng nhạc đồng, gọi là múa Gâu. Con gái kéo co bằng dây song, con trai đấu vật. Nơi cung sở của Xuân nương, trai gái vùng núi tới tung còn ca hát đối đáp nhau từng đôi một. Hội kéo dài tới nửa đêm, đuốc nhựa trám và bạch lạp cháy rừng rực tới gần sáng.

    Xuân nương thiết lập dinh sở. Thượng cung là nơi nàng cùng với nữ binh nghỉ, hạ cung là nơi ở của thập bộ thần quan. Xung quanh dinh lập đồn trại cho tả, hữu, tiền, hậu bốn quân đóng giữ. Thượng cung làm trên một quả đồi cao hình con rùa, mé trước là ao bán nguyệt, mé sau có giếng đá nước trong leo lẻo mát lạnh, là nước mạch từ núi dẫn về. Xuân nương đóng ở đó, đưa lệnh chiêu quân đi các nơi, được hơn một nghìn người về ứng mộ. Ngày mồng ba tháng năm, Xuân nương làm lễ trước phần mộ cha anh rồi đưa quân lên đường. Trung quân có năm trăm nữ binh nai nịt gọn gàng tay khiên tay gươm. Quân cung thủ ba trăm, tên dài nỏ cứng. Tiền quân mang giáo, có búa có dao, hậu quân có ngựa có thuyền, tả quân mang đao vác mộc là quân các mường, hữu quân cầm mác đeo gươm là quân các sách. Ba nghìn nghĩa quân của Xuân nương hùng dũng hăng hái tiến về Hát Môn hội với anh hùng hào kiệt các nơi dưới cờ Trưng chúa. Trưng chúa và các tướng soái, các thủ lĩnh nghĩa quân đều khâm phục Xuân nương, binh oai hùng, tướng nghiêm trang, đội ngũ tề chỉnh. Trưng chúa phong cho Xuân nương là Thị nội tham tán quân cơ, giúp Trưng chúa bày mưu định kế, lo liệu các việc. Trưng chúa họp 6 vạn quân ở Hát Môn, tiếng chiêng tiếng trống vang trời, gươm giáo sáng choang, cờ xí chói mắt, nam binh nữ tốt lẫm liệt oai phong. Tế cờ xong, quân chuyển lên đường, chia các đạo tiến đánh giặc Hán, thế mạnh như bão đổ nước dâng, cờ chỉ tới đâu giặc tan tới đó.

    Dẹp xong giặc nước, Vua Trưng phong Xuân nương làm Đông cung công chúa Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Sau lễ phong, Xuân nương được về nghỉ thăm mộ phần gia tiên và các nơi châu ấp.

    Ngày mồng 5 tháng giêng, Đông cung công chúa về làng Nam Cường, mồng 8 đến trang Tiền Áo, mồng 9 về tới Hương Nha. Tới làng nào nhân dân cũng đều vui mừng quyến luyến. Ngày mồng mười tháng giêng Xuân nuơng tắm gội sớm rồi ra dự hội với dân chúng ở bến Lão Châu. Hội làng mừng Xuân nương có đánh vật, chọi gà, hát xướng, con trai mặc giả gái hát dâu bán tơ, con gái mặc giả trai mang cày vác bừa, hát với nhau rồi té nước vào nhau. Ngày hội ấy người các làng kéo về dự đông nườm nượp. Từ đó bến Lão Châu còn đuợc gọi là bến Đông. Xuân nương cho quân mổ trâu giết lợn, làm bánh dày cùng vui với các cụ phụ lão và dân chúng, nhân đó nói với các cụ rằng : " Dân ta đây trung hậu, phong tục thuần phác, thật đáng khen ". Nàng bàn với các cụ việc trồng dâu trồng chuối ở bên sông. Nghỉ lại vài ngày, Xuân nương về Huơng Nộn, ngày rằm làm lễ cúng Phật ở chùa, hôm sau thăm viếng phần mộ cha anh, rồi về triều bái mệnh.

    Trong triều có tướng quân Đặng Thi Bằng lĩnh chức trưởng quản thủy quân các đạo. Là em ruột Thi Sách, ông góa vợ sớm, không có con. Tướng quân Đặng Thi Bằng được biết Xuân nương là nữ trung hào kiệt, có nghĩa khí thao lược, nhan sắc mặn mà, nên đem lòng yêu mến, mới tâu nhờ Vua Trưng nói giúp. Xuân nương nghe Vua Trưng làm mối cho Đặng tuớng quân, nàng vui lòng tuân lệnh. Từ đấy, trai trượng phu gái anh hùng sánh đôi như rồng sánh phượng, như quế sánh hồi, tình nghĩa mặn nồng đằm thắm.

    * * *
    Khi giặc xâm chiếm lại Giao Châu, Mã Viện cho một đạo tiến theo sông Thao do tướng Lưu Long đốc lĩnh, lần lượt phá vỡ các đồn trại trên tuyến của ta ở bên sông. Tình thế quân ta lúc đó trăm phần nguy cấp. Trương vương truyền lệnh cho Xuân nương cùng với Thi Bằng về lập phòng tuyến cự địch ngay ở nơi thực ấp của Xuân nương. Đấy là phòng tuyến cuối cùng bảo vệ cho đạo quân Nàng Nội đóng ở Bạch Hạc. Hai vợ chồng Xuân nương ra sức chống đỡ, mặt thủy có Thi Bằng, mặt bộ có Xuân nương. Hai bên giao chiến bảy ngày liền giặc vẫn chưa phá vỡ được phòng tuyến quân ta. Ngày mười ba tháng hai, giặc vây Thi Bằng ở bến sông. Quân giặc ùn ùn kéo đến khép kín bốn mặt. Thi Bằng múa đao tả xung hữu đột hồi lâu, nhỡ tay đánh rơi đao liền bị tướng giặc thúc ngựa sát tới đâm một giáo giữa bụng. Tướng quân Thi Bằng kêu to một tiếng, ngã ngay trước trận tiền. Xuân nương được tin chồng bị vây, vội lên ngựa, hai tay hai kiếm cùng thập bộ thần quan thẳng tới trận tiền. Nàng ra ra vào vào bốn năm lượt, chém rụng đầu mười viên tướng giặc mà vẫn không phá nổi vòng vây. Giặc đông như kiến, lớp này giãn ra lớp khác xông vào. Có tin tướng quân Thi Bằng đã bị giết hại, quân ta bối rối nao núng bị giặc đánh tan tác. Xuân nương cùng vài nữ tốt lúc đó đều mặc nam trang đứng giữa vòng vây cự giặc. Đánh từ sánh tới trưa, mặt trời đã đứng bóng, Xuân nương thấy bụng đau như thắt, chân tay bủn rủn, biết là động thai, cố sức chống đỡ che chỡ cho cái thai 5 tháng nằm trong bụng. Các nữ tốt đều bị tử thương. Xuân nương, vừa đau vừa mệt, ngựa sùi bọt mép, người đổ mồ hôi, áo giáp bị một mũi giáo đâm rách...Giặc Hán biết là tướng bà, reo ầm lên, liền cởi ngay áo, người để trần, xông vào bắt. Xuân nương thấy quân giặc hò hét nhảy nhót như lũ quỷ điên dại, vừa giận vừa thẹn, má đỏ bừng, lỡ tay rơi cả hai kiếm, vội thúc ngựa chạy. Tướng giặc đuổi theo. Xuân nương giật được một lưỡi dao của giặc, kìm ngựa quay ngoắt mình lại, đầu tướng Hán rơi như một quả chín nẫu rụng khỏi cành. Quất ngựa chạy được một quãng vẫn chưa thoát được vòng vây, Xuân nương lại bị giặc phóng một mũi kích vào sườn, máu đổ ra như suối. Lúc ấy các thần quan chạy tới cố sức xông pha cứu nguy cho chủ tướng mới đưa được Xuân nương ra khỏi vòng vây. Quân giặc bị đánh lui.

    Xuân nương xuống ngựa nằm gục ở bến Nam Cường, đau không dậy được, nước mắt ướt đầm cả mặt, khóc chồng, thương hòn máu đỏ nằm trong bụng. Các gia thần và nhân dân vực Xuân nương dậy, nịt thuốc vào các vết thương, dâng cơm nước. Xuân nương nghỉ ngơi được một lúc, giặc lại ồ ạt kéo đến vây khắp trước sau. Xuân nương lên ngựa cùng các tướng vừa đánh vừa rút về cung sở ở Hương Nha. Xuân nương đi tới đâu, máu rỏ ra tới đó, máu theo dấu chân ngựa rải khắp dọc đường. Tới Hương Nha, các tướng cố sức đánh lui quân giặc, nghiêm phòng cẩn mật, người không cởi giáp, ngựa không tháo yên. Xuân nương nghỉ được một đêm. Hôm sau, giặc lại kéo đến nhưng các tướng giữ vững thành lũy, giặc không phá nổi.

    Hôm ấy, ngày mười lăm tháng hai, buổi chiều, Xuân nương cho làm một cỗ chay cáo tế trời đất, cúng cha anh và cúng chồng rồi lui về nghỉ. Buổi tối, Xuân nương gọi các gia thần, nữ tốt vào cung dặn dò mọi việc. Tới đêm, Xuân nương lấy ngựa một mình ra đi, nhằm phía làng Hương Nộn lần bước. Mưa rơi như roi quất, chớp giật, sấm rền, Xuân nương bụng đau âm ỉ, các vết thương ngấm nước nhức nhối, tránh các nơi giặc đóng, vừa đi vừa nghỉ. Nàng ngồi trên một hòn đá lớn ở Tiền Áo một lúc, khi đứng dậy hòn đá ướt đẫm máu. Xuân nương lại gắng gượng lên ngựa, vượt gió mưa về tới Hương Nộn. Tới đây, Xuân nương thả ngựa, lần tới cửa chùa, ngồi nghỉ một lúc rồi lần trước khắp sau chùa, bồi hồi tưởng nhớ. Lần tới bờ sông Xuân nương tự nói : " Ta không muốn tử tiết ở nơi cung sở để xác lọt được vào tay giặc và làm tan rã chí ba quân. Nay sức ta đã hết, xin một chết để báo ơn vua đền nợ nước. Hồn ta muôn đời không tan, nguyện sẽ phù hộ cho dân cho nước ". Nói đoạn nàng gieo mình xuống dòng sông Thao cuồn cuộn trôi...


    Chú thích:
    (1) - Nơi Xuân nương gieo mình, theo truyền thuyết, hôm sau mối đùn lên thành gò, nhân dân gọi đấy là mộ Xuân nương. Năm ngày sau khi Xuân nương tử tiết, ngày 20 tháng hai, đồn trại Hương Nha bị giặc phá, các thần quan đều tử tiết.
    Châu Đại Man gồm các miền rừng núi đồng bãi thuộc các huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn, Cẩm Khê, ngày nay.
    Dọc đường quốc lộ từ bến đò Ngọc Tháp (Phú Thọ) tới bến Trung Hà, các xã Hương Nha, Vực Trường, Thanh Uyên, Tam Cường, Cổ Tiết, Hương Nộn, đều có thờ Xuân nương. Theo các cụ ở địa phương thì các đền miếu này xây dựng trên dấu máu những nơi nàng Xuân đánh với Mã Viện trong trận cuối cùng của đời nàng.
    Chùa ở Hương Nộn nói trong truyền thuyết trên là chùa Khánh Long tự dựng ở mõm cao bên sông Thao gọi là Phác Sơn, thuộc xã Hương Nộn trước gọi là hương Tuế Phong, cũng gọi là Kẻ Xoan. Các xã Thanh Uyên (gồm Tiền Áo, Giá Áo, Nam Cường), Tam Cường và Hương Nha là khu vực chiến trường Xuân nương và Thi Bằng đánh nhau với quân Hán.
    Miếu thờ Xuân nương ở Hương Nha có hai câu đối như sau :
    " Yểu điệu phù Trưng trung quán nhật "
    " Quật cường cự Hán tiết lăng sương ".
    (Đại ý : Người yểu điệu phù vua Trưng, lòng trung tranh sáng với mặt trời. Quật cường cự với giặc Hán, khí tiết thắng cả thời gian).
    2 - " Anh kiệt vô song, vạn cổ thanh danh lưu nữ sử "
    " Quân thần câu hoá, nhất không trung nghĩa tối thanh thiên ".
    (Đại ý : Anh kiệt không hai, danh tiếng ngàn đời lưu vào sử sách những người con gái. Vua tôi cùng mất lòng trung nghĩa làm trời xanh vằng vặc cũng không bằng).
    Nói riêng về tục lệ cầu tế ở xã Hương Nha : mọi lễ dâng Xuân nương đều làm cỗ chay, có bánh dày, mật mía và củ mài. Các lễ tế mười vị thần quan và quân sĩ đều mỗ trâu, nồi da nấu thịt, cỗ bày trên mâm tre đan lót lá chuối, lá ngõa, lá ngô đồng. Ngày tiệc, mở hội ở bến Lão Châu tức bến Đông, có trò trình nghề (rước các nghề nghiệp), cày bừa té nước vào nhau (diễn xướng lễ nghi nông nghiệp) hái dâu, bán kén, chọi gà, đánh vật, kéo quân, trai gái hát đối đáp.
    Ở xã Hương Nộn, ngày cầu Xuân nương, các phường xoan Kim Dức và An Thái (Phù Ninh) sang hát chầu theo tục lệ, hát từ chập tối tới gà gáy sáng và liền trong ba ngày. Trong các buổi hát thờ ấy, trước bàn thờ Xuân nương có sáu người con gái xinh đẹp chưa chồng, mặc quần áo xanh đỏ, chít chăn chéo hai bên sườn, cầm kiếm và hộp trầu, đứng nghiêm suốt buổi lễ. Miếu Hương Nộn cho tới kháng chiến chống Pháp còn một bức tranh thờ vẽ Xuân nương ngồi giữa, sau lưng có sáu nữ tốt cầm kiếm đứng hầu, xung quanh là cây cảnh và các nam binh nữ tốt. Tranh ấy nay đã mất.

    Dân địa phương kiêng tiếng Xuân, tiếng ả, tiếng nương, và các tiếng Hiên, Hoa là tên mẹ Xuân nương, tiếng Sát là tên bố Xuân nương.
    Theo thần tích ở Hương Nha, khi quan thái thú Lê Thiện là tướng của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đem quân đánh giặc Minh có qua đây đêm mộng thấy Xuân nương hiện lên cho biết sẽ âm phù cho nghĩa quân thắng giặc. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ có phong sắc cho Xuân nương là " Đệ bát vị Đông cung công chúa Xuân nương ", phong cho các thập bộ thần quan là đại vương, giao cho dân sở tại tu sửa đền miếu hương khói đời đời. Phong Xuân nương là " Đệ bát vị " vì nàng là con thứ tám.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

     

Quuyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts