TRẦN HƯNG ĐẠO (? - 1300)
Ngô Tiên Chúa cả phá quân Lưu Hoằng Thao, Trần Hưng Đạo bắt sống Ô-mã-nhỉ,
đều là ở sông Bạch Đằng và đều là những võ công lừng lẫy nhất của nước ta.
Danh tiếng các vị hào kiệt ấy đời đời còn mãi với ngàn thu sông núi. Dấu vết
hôi tanh của giặc Hán và giặc Nguyên cũng còn mãi với nước non ta, làm sao mà
rửa hết được. Giang sơn của nước Nam này đã được định rõ trong sách trời.
Giặc Bắc dẫu có cậy trí lực mạnh để chiếm cứ thì rốt cuộc, lấy được cũng không
thể nào giữ được. Vậy thì tham việc binh đao phỏng có ích gì? Bài Bạch Đằng
giang phú của Trương Hán Siêu có câu: “Binh khí vất đầy như đụn cát,
xương khô chất đống như non cao; Có trận thắng lớn nào là nhờ Đại Vương biết
tiên liệu trước”. Nghiền ngẫm thật kĩ mới hay lời văn thực đã diễn tả được nỗi
đau bại trận của nhà Hán và nhà Nguyên rồi vậy.
Ngô Thì Sĩ
(Việt sử tiêu án)
1. TÓM LƯỢC VỀ TIỂU SỬ
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 1-a) cho hay, tiên tổ của họ Trần là Trần Kinh, người làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Làng này nay là xã Tức Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Kể từ Trần Thừa trở về trước, người họ Trần ở làng Tức Mặc đời đời đều làm nghề chài lưới. Trần Thừa có sáu người con (bốn trai, hai gái). Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh, về sau là vua đầu của triều Trần (Trần Thái Tông: 1226 – 1258), cho nên, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng và khi mất, miếu hiệu là Trần Thái Tổ, dẫu trong thực tế, Trần Thừa chẳng hề làm vua ngày nào.
Con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu. Khi em là Trần Cảnh làm vua, Trần Liễu được phong là An Sinh Vương. Hiện vẫn chưa rõ An Sinh Vương Trần Liễu có mấy người con, chỉ thấy sử cũ nhắc đến ba người. Con trai trưởng là Trần Doãn. Trần Doãn được phong là Vũ Thành Vương nhưng rất tiếc là vì những hiềm khích nội bộ, năm 1257, Vũ Thành Vương Trần Doãn đã đem cả gia quyến chạy sang Trung Quốc và bị viên Thổ Quan của Trung Quốc ở phủ Tư Minh bắt nạp lại cho triều Trần. Người con thứ năm của Trần Liễu là Trần Thị Thiều. Tháng 8 năm 1258, Trần Thị Thiều được gả cho vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278), lúc đầu được phong là Thiên Cảm Phu Nhân và ít lâu sau thì phong là Thiên Cảm Hoàng Hậu. Bà chính là thân mẫu của vua Trần Nhân Tông (1278 – 1293).
Trong số những người con của An Sinh Vương Trần Liễu, nổi bật hơn cả vẫn là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn về sau được phong là Hưng Đạo Vương, vì thế, người đời vẫn quen gọi ông là Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300) nhưng hiện tại, vẫn chưa xác định được năm sinh của ông, đại để chỉ biết ông thọ khoảng 70 tuổi, tức là sinh vào khoảng dăm năm sau khi triều Trần được dựng lên.
Sách Trần triều thế phả hành trạng nói Trần Hưng Đạo sinh vào ngày 10 tháng chạp năm 1251.
Điều này không thể tin, vì các bộ chính sử đều chép rằng Trần Hưng Đạo cưới vợ vào tháng 1 năm
1251, tức là trước đó những ngót một năm.
Ông Lam Sơn trong sách Hưng Đạo Đại Vương (xuất bản năm 1946) nói rằng Trần Hưng Đạo
sinh ngày 10 tháng chạp năm 1228, nhưng không cho biết là ông đã dựa vào cơ sở nào để viết như thế.
Ông Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo (xuất bản năm 1950) viết: “Trần Quốc Tuấn
sinh vào khoảng niên hiệu Kiến Trung hồi đầu Trần, lối năm Kiến Trung thứ tư (1228) đến thứ bảy
(1231), và ngài thọ trên dưới bảy mươi tuổi, độ từ 69 đến 72”
Các dịch giả sách Binh thư yếu lược (Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970) cũng viết
tương tự rằng: “Ông sinh vào khoảng những năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 gì đó”.
Chính sử không ghi chép, nhưng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau, các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật
Giáo Việt Nam đánh giá rất cao vị trí của Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ). Trần Tung là anh
của Trần Hưng Đạo (hiện vẫn chưa rõ có phải là anh em cùng cha cùng mẹ hay không), mà Trần Tung
sinh năm 1230, thì theo lẽ thường, Trần Hưng Đạo phải sinh sau năm 1230. Theo Trần triều thế phả hành trạng, thân mẫu của Trần Hưng Đạo là Trần Thị Nguyệt. Tuy nhiên, sách này cũng không hề cho biết thêm gì về bà. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 17-b) nói rằng, Trần Hưng Đạo là con nuôi của Thụy Bà Công Chúa, mà Thụy Bà Công Chúa là em gái của An Sinh Vương Trần Liễu, chị gái của vua Trần Thái Tông. Chúng tôi xét rằng:
- Thân sinh của Trần Hưng Đạo là An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211, mà Trần Hưng Đạo là con thứ, do người vợ thứ của An Sinh Vương Trần Liễu sinh hạ, thì Trần Hưng Đạo rất khó có thể được chào đời vào khoảng trước năm 1230.
- Thụy Bà Công Chúa nhận Trần Hưng Đạo làm con nuôi. Sử cũ không ghi rõ, nhưng An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211 và vua Trần Thái Tông sinh năm 1218, thì Thụy Bà Công Chúa ắt phải sinh vào khoảng các năm 1214, 1215 hay 1216 gì đó. Là con nuôi của Thụy Bà Công Chúa, một người ở độ tuổi như vừa kể, Trần Hưng Đạo lại càng khó có thể được sinh ra trước năm 1230.
Tóm lại, Trần Hưng Đạo chỉ có thể chào đời vào khoảng sớm nhất cũng không trước năm 1230 và muộn nhất cũng không sau năm 1232.
Vợ của Trần Hưng Đạo là Công Chúa Thiên Thành (con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo. Triều Trần có lệ bắt người trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này). Công Chúa Thiên Thành sinh hạ tất cả năm người con (gồm một trai và bốn gái)(theo trình bày thì phải nói là một gái bốn trai mới đúng - chuongxedap), đó là:
- Trinh Công Chúa: Hoàng Hậu của vua Trần Nhân Tông, sau được con là vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) tôn là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu.
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiển: Võ tướng có tài. Sau là Phò mã của vua Trần Thánh Tông (chồng của Thiên Thụy Công Chúa).
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Nghiễn: Võ tướng có tài, lại cũng là người có công tổ chức khẩn hoang. Chính ông là người đã biến nhiều vùng đất hoang vu của khu vực Hải Dương (tỉnh Hải Hưng ngày nay) thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ tướng có tài. Ông có con gái là Hoàng Hậu của vua Trần Anh Tông (bà Thuận Thánh Hoàng Hậu).
- Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uy: Võ tướng có tài.
Ngoài ra, Trần Hưng Đạo còn có một người con gái nuôi, đó là Nguyên Công Chúa. Nguyên Công Chúa là vợ của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão, người có công lớn trong các cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai và lần thứ ba.
Sử cũ ghi rất rõ tên, tước hiệu và những cống hiến nổi bật của các con Trần Hưng Đạo, nhưng, ngoài việc khẳng định Trinh Công Chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chức thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Trên đây chỉ là sự sắp xếp tạm thời, dựa trên cơ sở chủ yếu là suy đoán trật tự thông thường của cách đặt tước hiệu mà thôi.
Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo có dặn các con của ông rằng: “Ta chết thì phải hỏa táng, lấy hũ tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc rồi san đất và trồng cây như cũ để người đời không biết chỗ nào”. (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ 10-b). Có lẽ cũng vì thế mà ngày nay, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở rất nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng ngôi mộ thực sự của Trần Hưng Đạo thì chưa rõ ở vị trí cụ thể nào.
Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc. Sách Đại Việt sử kí toàn thư đã trân trọng chép những lời thật cảm động về đức độ của ông:
“Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Khi mới chào đời, thầy tướng xem xong liền nói:
- Con người này về sau có thể giúp nước cứu đời.
Lớn lên, (Quốc Tuấn) khôi ngô và thông minh hơn người, đọc nhiều sách vở, tài trí gồm đủ cả văn lẫn võ. Trước đó, An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (chỉ vua Trần Thái Tông - NKT), để bụng căm ghét, cho nên, tìm người tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng:
- Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng cha không sao nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi nhớ lời của cha, nhưng không cho đó là lời nói phải. Khi vận nước lung lay, chức lớn trong nước và quyền nắm quân đã sẵn ở trong tay, ông liền đem lời cha dặn nói với hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai gia nô can rằng:
- Kế ấy nếu thành thì được phú quý một đời nhưng lại để tiếng xấu đến ngàn năm. Nay Đại Vương phú quý như thế chưa đủ hay sao? Chúng tôi thà chết già với kiếp gia nô chứ không mong làm quan mà bỏ cả trung hiếu, trọn đời, xin được tôn người bán thịt dê tên là Duyệt làm thầy mà thôi1.
Quốc Tuấn nghe lời ấy, cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người mãi không thôi. Một hôm, Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương (tức Trần Quốc Hiển - NKT.):
- Xưa nay ai cũng muốn có thiên hạ để truyền cho con cháu. Con nghĩ sao về việc này?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Việc đó dẫu là đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là đối với người trong cùng một họ.
Quốc Tuấn cho là phải. Lại một hôm, Quốc Tuấn đem chuyện này nói với người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng liền tiến lên thưa:
- Như Tống Thái Tổ kia, vốn chỉ là một lão nông, vậy mà còn có thể thừa cơ dấy lên, lấy được cả thiên hạ, huống là...
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Loạn thần đều do tặc tử mà ra!
Nói rồi định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội tới khóc van xin chịu tội thay, bấy giờ, quốc Tuấn mới tha. Ông dặn Hưng Vũ Vương rằng:
- Sau này, khi nào ta chết, phải đợi đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”2.
____________________________________
1. Tích lấy tứ Bắc sử. Xưa, vua nước Sở là Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài. Bấy giờ chỉ có một người làm nghề bán thịt dê tên là Duyệt đi theo phò tá. Hết loạn trở về, Sở Chiêu Vương ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối mà nói rằng:
- Nhà Vua mất nước khiến tôi không được đi bán thịt dê, nay vua lấy lại được nước, tôi lại được làm nghề bán thịt dê như cũ, tước lộc thế là đủ, còn mong thưởng thêm gì nữa?
2. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kí. quyển 6, tờ 9-b và tờ 10-a.
Đối với vua, Trần Hưng Đạo một lòng cung kính trung thành, đối với quý tộc và đồng liêu, Trần Hưng Đạo mực thước giữ đức hòa thuận, đối với quân sĩ và trăm họ, Trần Hưng Đạo nặng lòng thương yêu. Trần Hưng Đạo đã để lại cho muôn đời lời nói chứa chan tâm huyết của một bậc nặng lòng ưu thời mẫn thế: “Nới sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giữ nước”1.
Trần Hưng Đạo là một nhà văn hóa lớn của nước nhà. Cống hiến của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, to lớn và sâu sắc. Chỉ cần một Hịch tướng sĩ văn không thôi, tên tuổi của ông cũng đã đủ để bất diệt với lịch sử, huống chi, sự nghiệp của ông nào phải chỉ có bấy nhiêu.
Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đặc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. Nhưng, một nền khoa học thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sinh. Trước tác có giá trị đánh dấu sự kiện này chính là Binh thư yếu lược.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 14-b) viết: “Quốc Tuấn lại sưu tầm binh pháp
của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền
thư, Nhân Huệ Vương (Trần) Khánh Dư viết bài đề tựa cho sách ấy”. Và Đại Việt sử kí toàn thư
đã sao lục toàn văn lời đề tựa này. Đó là một lần khẳng định.
Trong Hịch tướng sĩ văn: Trần Hưng Đạo cũng nói rõ: “Nay ta đã chọn trong binh pháp các nhà
(những chỗ hay) rồi soạn thành bộ Binh thư yếu lược…”. Đó là hai lần khẳng định.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), Phan Huy Chú viết: “Lớn lên, ông (chỉ
Trần Hưng Đạo - NKT) có dáng mạo hùng vĩ, thông minh học rộng hơn người, tài kiêm văn võ.
Ông có soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược, lại thu góp binh pháp của các nhà, soạn thành phép
Bát quái cửu cung đồ, đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp bí thư để dạy cho chư tướng”. Đó là
ba lần khẳng định.
Các tác giả bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 34 ) viết:
“Khi quân Nguyên sang xâm lấn, Quốc Tuấn tự mình soạn ra sách Binh gia diệu lý yếu lược và
làm bài hịch trao cho các tướng. Đó là bốn lần khẳng định...v.v
Nói khác hơn, thư tịch cổ đều khẳng định rằng Trần Hưng Đạo là người đã soạn ra bộ binh pháp.
Tuy nhiên, tên gọi của bộ binh pháp này mỗi nơi chép một cách, và đó cũng là điều thường thấy trong
thư tịch xưa. Theo chúng tôi, có lẽ nên theo lời của chính Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ văn
để gọi bộ binh pháp đó là Binh thư yếu lược. Và, các sách kể trên có lẽ cũng đã gọi Binh thư
yếu lược bằng nhiều tên gọi khác nhau mà thôi.
Với việc biên soạn và phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng, muốn đập tan những đội quân ăn cướp tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh thần chiến đấu, lí tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ cũng như thiết bị kĩ thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị những tri thức về binh pháp. Với việc khai sinh Binh thư yếu lược2, Trần Hưng Đạo thực sự trở thành nhà lí luận quân sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là nhà lí luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ huy thiên tài. Ông là linh hồn của những chiến công chống xâm lăng vang dội ở thế kỉ XIII.
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1257 - 1258. Trần Hưng Đạo tuy chỉ mới là một vị tướng trẻ
nhưng đã được triều đình tin cậy trao trọng trách: “Tháng 9 (năm 1257 - NKT ), Vua xuống chiếu,
hạ lệnh cho tướng sĩ thủy bộ ra ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn”3.
Từ sau hội nghị quân sự Bình Than (năm 1282), Trần Hưng Đạo được trao quyển chỉ huy cao nhất
của quân đội nhà Trần. “Tấn phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh
quân đội cả nước, cho được chọn các tướng có tài cầm quân đi chỉ huy các đơn vị”4.
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1287 - 1288, Trần Hưng Đạo
là người đã tổ chức nên những thắng lợi oanh liệt nhất của quân dân Đại Việt. Tên tuổi của Trần Hưng
Đạo gắn liền với những võ công hiển hách nhất, mà nổi bật hơn cả là trận Bạch Đằng (9-4-1288).
______________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ 9 a-b.
2. Muốn rõ hơn về tác phẩm này, xin đọc thêm hai cuốn sách. Một là bản dịch Binh thư yếu lược (phụ Hổ trướng khu cơ) của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970. Ở đây, phần Hổ trướng khu cơ là binh pháp của Đào Duy Từ (1572 - 1634). Hai là Trần Hưng Đạo - Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần chủ biên. Nhà Xuất bản Trẻ, 1987.
3. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 5, tờ 22-a.
4. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ. quyển 5, tờ 43-b.
Sinh thời, uy danh lừng lẫy của Trần Hưng Đạo đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, “tiếng vang đến cả giặc phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương chứ không dám gọi tên”1.
Bảy thế kỉ qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Hưng Đao luôn tỏa sáng trong sử sách, luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ văn và nhiều loại hình nghệ thuật khác ở nước ta. Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) viết:
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
(Núi sông xưa nay mở đôi mắt mà xem,
Chuyện được thua của Hồ - chỉ nhà Nguyên - và Việt tựa lan can mà ngẫm nghĩ).
Đặng Minh Khiêm (? - 1585) viết:
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiến da minh phong.
(Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng2 công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh kiếm dài tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió).
Cao Bá Quát (1808 - 1855) ca ngợi:
Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
(Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên3,
Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương4 có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi ).
Các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu...v.v. đều có những tuyệt tác về Trần Hưng Đạo và sự nghiệp của ông. Các nhà khoa bảng Nho học sau đó cũng thường dành cho Trần Hưng Đạo những lời đặc biệt kính trọng.
Ngày nay, hình như hiếm có vị anh hùng dân tộc nào mà họ tên và tước hiệu được trang trọng đặt cho nhiều đường phố, công sở và trường học như Trần Hưng Đạo.
_________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ11-a.
2. Niên hiệu của vua Trần Nhân Tông, dùng từ năm 1285 đến năm 1293.
3. Đây chỉ dòng dõi nhà vua. Với vua Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo 1à cháu ruột. Với vua Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo là anh con nhà bác. Với vua Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo là bác họ.
4. Tức Phần Dương Quận Vương, tước hiệu của Quách Tử Nghi, người Trung Quốc đời Đường, có công lớn, được vua Đường rất kính nể.
Bài thơ này, cũng có người nói là của Nguyễn Khuyến. Đây chúng tôi theo ý chung của nhiều người mà nói là của Cao Bá Quát.
2. CUỘC ĐỐI ĐẦU CÓ MỘT KHÔNG HAI TRONG LỊCH SỬ ĐẠI VIỆT
Cuối thế kỉ thứ XII, đầu thế kỉ thứ XIII, trên vùng đất thuộc Mông Cổ ngày nay, một cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các bộ tộc du mục người Thát-đát (Tartare) đã diễn ra. Nguyên triều bí sử đã ghi lại khúc hát ngắn của người Thát-đát lúc bấy giờ như sau:
Trời có sao,
Đang quay cuồng,
Người người đã nổi dậy,
Không về chỗ ngủ của mình nữa,
Mà cướp đoạt của cải lẫn nhau.
Đất có cỏ
Đang lật nhào,
Người người đã nổi dây,
Không nằm trong chăn của mình nữa,
Mà đánh lẫn nhau1.
Trong khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt đó, một nhân vật đặc biệt đã xuất hiện, đó là Tê-mu-jin (Tämüĵin), tên phiên âm Hán Việt là Thiết-mộc-chân, Thắc-mộc-chân hoặc là Đặc-mục-tân. Năm 1205, lần lượt các bộ tộc Thát-đát đều phải quỳ gối đầu hàng Tê-mu-jin và năm sau (năm 1206), Tê-mu-jin đã được tôn làm Trin-ghit Khan (Cinggis-qan) nghĩa là vua mạnh nhất. Âm Hán Việt của Trin-ghit Khan là Thành-cát-tư Hãn.
Sự kiện trọng đại này có ý nghĩa sâu sắc và lâu dài đối với toàn bộ quá trình phát triển sau đó của lịch sử các bộ tộc Thát-đát. Từ đây xã hội nguyên thủy của họ đã cáo chung. Từ đây, quốc gia thống nhất của những người du mục đã ra đời.
Nhưng, điều đáng tiếc là sau khi được tôn lên ngôi Hãn, Tê-mu-jin đã lợi dụng tài bắn cung và cưỡi ngựa của các bộ tộc du mục để tiến hành một cuộc chiến tranh tàn bạo đối với một loạt các quốc gia đương thời. Quân Mông Cổ đi tới đâu là ở đó bị tàn phá và giết chóc. “Nghệ thuật, những thư viện phong phú, nền công nghiệp ưu việt, cung điện và giáo đường - tất cả sạch không”2. Nhà thơ V.Frik viết:
Không còn một dòng suối, một con sông nào
không tràn đầy nước mắt chúng ta;
Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào
không bị quân Tác-ta giày xéo3.
Sau đây là những sự kiện lớn, đánh dấu lịch sử cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chưa từng thấy này:
- Năm 1211, quân Mông Cổ tiến vào khu vực miền Bắc Trung Quốc ngày nay. Bấy giờ, đây là vùng chiếm cứ của người Nữ Chân, và từ năm 1115, họ đã lập ra được một quốc gia riêng cho mình, đó là nước Kim. Năm 1215, quân Mông Cổ đã chiếm được kinh đô của nước Kim, nhưng họ chỉ cướp đoạt của cải và bắt thật nhiều tù binh rồi rút về.
- Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm được vùng phía Đông của Turkestan ngày nay.
- Năm 1219, kị binh Mông Cổ hung hãn tiến về Trung Á. Tại đây, một loạt những thành phố nổi tiếng, lần lượt bị tấn công và bị triệt hạ.
- Năm 1221, các vương quốc như Azerbaijan, Grouzia và nhiều thành phố lớn của Nga bị quân Mông Cố bóp nát.
- Năm 1223, sau thất bại thảm hại của liên quân Nga, đến lượt cả nước Nga cũng bị quân Mông Cổ chiếm đóng. Quân Mông Cổ đã ăn mừng chiến thắng bằng cách bắt trói các tướng chỉ huy liên quân Nga, kê ván lên đầu họ để... mở tiệc!
_________________________________
1. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm trong Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỉ XIII. Bản in lần thứ tư. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975, trang 41 và 42.
2. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Sách đã dẫn, trang 43.
3. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Sách đã dẫn, trang 37.
- Năm 1225, Mông Cổ tấn công Tây Hạ1. Tây Hạ thất thủ.
- Năm 1227, Thành-cát-tư Hãn qua đời nhưng cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của quân Mông Cổ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đầu năm 1238, quân Mông Cổ đã chiếm được Mạc-tư-khoa và cuối năm 1240, thành Ki-ép cũng bị quân Mông Cổ tiêu diệt.
- Năm 1241, quân Mông Cổ đánh vào Hung-ga ri, đuổi vua của Hung-ga-ri đến tận biên giới nước Ý. Bấy giờ, cả châu Âu bị chấn động dữ dội bởi vó ngựa hung hãn của quân Mông Cổ. Nỗi lo sợ bao trùm lên mọi quốc gia.
Cuộc thông thương giữa nước Anh với lục địa châu Âu bị gián đoạn. Hoạt động buôn bán của nhiều quốc gia cũng bị đình trệ.
Sau thất bại của đội liên minh kị binh giữa người Ba Lan và người Đức (1241), dân Đức chỉ còn biết cầu nguyện. Xin Chúa hãy cứu vớt chúng con khỏi họa Tác-ta.
Bà Thái Hậu của vua nước Pháp lúc bấy giờ là Saint Louis hỏi Saint Louis rằng “Nếu quân Tác-ta đến đây thì con sẽ làm gì?”. Saint Louis trả lời: “Nếu chúng kéo đến, một là ta đuổi chúng về địa ngục, nơi mà chúng đã ngoi lên, hai là chúng ta phải về thiên đường hưởng hạnh phúc mà Chúa đã dành cho chúng ta”.
Ngay đến cả Giáo Hoàng La-mã lúc ấy là Grégoire thứ IX cũng phải thốt lên rằng: “Nhiều việc khiến cho ta lo lắng, như những việc đáng buồn ở đất Thánh, những mối lo âu của giáo hội hay tình hình đáng thương của đế quốc La-mã. Nhưng, ta nguyện quên hết những lo âu đó mà chú tâm đến tai họa Tác-ta, sợ rằng hiện nay uy danh của đạo Cơ Đốc sẽ bị bọn Tác-ta tiêu diệt mất. Nghĩ đến đó là ta xương nát tủy khô, thân gầy sức kiệt, đau xót vô cùng, khiến ta không biết làm gì đây”.
- Trong khoảng mười năm, kể từ sau năm 1241, đế quốc Mông Cổ tuy có bị khủng hoảng bởi sự lục đục trong nội bộ giai cấp thống trị nhưng nhìn chung, phần đất đai đã chiếm vẫn được giữ vững.
- Năm 1251, khi Möngkä (phiên âm Hán-Việt là Mông-kha) lên ngôi Hãn, cuộc khủng hoảng nội bộ của Mông Cổ chấm dứt, những cuộc viễn chinh lại được ráo riết tiến hành. Từ đây, quân Mông Cố đẩy mạnh bành trướng xuống phương Nam.
- Năm 1252, ngay khi cuộc thôn tính Trung Quốc còn đang dở dang, Mông-kha đã ra lệnh cho em của hắn là Qubilai (phiên âm Hán - Việt là Hốt-tất-liệt) đánh xuống Vân Nam. Cùng đi với Hốt-tất-liệt còn có tướng U-ri-ang-kha-đai (có nhiều cách phiên âm Hán - Việt khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Ngột-lương-hợp-thai). Bấy giờ, đất Vân Nam thuộc lãnh thổ của nước Đại Lý và vua của Đại Lý lúc ấy là Đoàn Hưng Trí. Chỉ trong một thời gian ngắn, nước Đại Lý bị tiêu diệt. Hốt-tất-liệt trở về Mông Cổ, giao quyền quản lí đất này cho Ngột-lương-hợp-thai.
- Năm 1257, quân Mông Cổ do Ngột-lương-hợp-thai chỉ huy đã men theo sông Hồng, tràn xuống xâm lược nước ta và đó cũng là lần đầu tiên, quân Mông Cổ nếm mùi thất bại ở Đại Việt.
- Năm 1260, Hốt-Tất-Liệt lên ngôi Hãn. Sau một thời gian ngắn tập trung ổn định ngôi vị, Hốt-Tất-Liệt đã cho quân dồn dập tấn công nhà Tống. Năm 1278, nhà Tống bị diệt, Hốt-Tất-Liệt hoàn tất cuộc thôn tính Trung Quốc đã mở đầu trước đó bốn mươi năm.
- Cũng sau khi hoàn tất việc thôn tính đất đai Trung quốc Hốt-Tất-Liệt bắt đầu huy động những đạo quân thiện chiến và khổng lồ để đánh xuống nước ta. Đây quả thật là cuộc đối đầu có một không hai trong lịch sử Đại Việt.
Bấy giờ, đế quốc Mông Cố chẳng khác gì một con ác thú khổng lồ, mình phủ kín cả một vùng rộng lớn, kéo dài từ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Đất đai, dân số và tiềm lực kinh tế to lớn gấp hàng trăm lần so với Đại Việt.
Cũng bấy giờ, đất Đại Việt mới khoảng từ phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay trở ra, dân Đại Việt ước tính khoảng hơn ba triệu người. Đã thế, Đại Việt lại vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng. Quá trình phục hồi uy danh Đại Việt của nhà Trần cũng chỉ mới tiến hành được mấy chục năm.
Hốt-Tất-Liệt đã làm tất cả những gì mà quyền uy Hoàng Đế của đế quốc Mông Cổ có thể làm. Nhưng Đại Việt đã thắng bởi Đại Việt là Đại Việt và hẳn nhiên là cũng bởi một phần vì lúc bấy giờ, Đại Việt có Trần Hưng Đạo - một trong những vị danh tướng kiệt xuất nhất của lịch sử nhân loại.