Sự thât về Đường Tam Tạng
SỰ THẬT VỀ THẦY TRẦN HUYỀN TRANG
TỨC ĐƯỜNG TAM TẠNG ĐI TÂY PHƯƠNG THỈNH KINH
Vương Hồng Sển
Mọi người Việt Nam chúng ta, ai ai cũng đã từng được nghe kể lại, hoặc đọc truyện Ông Ðường Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký Diễn Nghĩa.
Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, bộ Tây Du Ký Diễn Nghĩa có cái đặc điểm ngộ nghĩnh là trẻ nhỏ đọc thì mê theo trẻ nhỏ; người lơn đọc thì lại say sưa theo ngươì lớn.
Trẻ nhỏ thì thích Tây du diễn nghĩa thần thông quảng đại, có bảy mươi hai phép biến hóa, Có Trư Bát giới chọc cười duyên dáng .... Còn người lớn thì say mê vì những ý nghĩa thâm trầm, trào lộng. So vơí các bộ tiểu thuyết danh tiếng khác như Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử v...v... phạm vi phổ biến của Tây Du diễn nghĩa còn rộng hơn nhiều. Căn cứ theo bộ truyện Tây du diễn nghĩa, thì thầy trò Tam tạng gồm bốn ngươì (Tam tạng, Ngộ không, Ngộ năng, Ngộ tịnh) và một con ngựa (bạch mã) tướng tinh là rồng mắc đọa. Cả đòan đi qua Tây phương ròng rã 14 năm trơì, khi thỉnh được kinh trở về có tám vị Kim Cang đằng vân theo hộ tống đưa về Trường an, vừa khứ hồi trở lại Tây phương cõi Phật chỉ mất có tám ngày vãng phản.. Truyện kể bốn thấy trò và một ngựa ngày đêm vượt rừng trèo núi, gặp yêu dẹp yêu, gặp phước làm phước, gian nan không sờn, tử sanh chẳng nệ, trải qua tám mươi mốt nạn lớn, nào là Bàn Ty động quyến rũ, nào là Hỏa diệm sơn đỏ hực, Tiểu lôi kinh khủng v..v... mới đến được Tây phương. Trong truyện vì làm việc của Tam Tạng là khó, không ai làm được, nên muốn cho dân chúng dễ tin, phải thêm thắt và thi vị hóa cuộc hành trình bằng bao nhiêu yêu tinh đón đương, lớp đòi ăn thịt Ðường Tăng, lớp cám dỗ (chuyện bảy con nhện cơỉ truồng tắm sông có Bát giới tắm hùa, còn khêu gợi gấp mấy chuyện ngày nay in hình khiêu dâm).. T
hực sự, Tây du diễn nghĩa là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt. Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh Kinh Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðường. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ "Ðại Ðường Tây Vực Ký". Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đm lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc. Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình, cỡi một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, 2 năm về và 13 năm ở lại du học tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (sau TL) mới về đến thành Trường an (Trung quốc). Tính ra Huyền Trang đã rời Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi về, ông đã mang về: - 150 Xá Lợi tử ( Tinh cốt của Như Lai).
- 2 tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước
- 3 Tượng Phật bằng đàn hương : Cao 3th5, 2th9, 2th3
- 657 bộ Kinh, chia làm 520 hiệp
- Cùng một số bảo vật khác nữa. và phải dùng voi, lạc đà và 24 ngưạ mới chở hết.
Trên thực tế, đường đi không có gặp yêu tinh cản trở (có chăng là bọn mọi dữ thích ăn thịt người) nhưng những khó khăn trở ngại cản trở lẫn vật chất và tinh thần lại hết sức nhiều và lơn, nếu là người khác ắt vô phương vượt khỏi. Có lúc Thầy Huyền Trang nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây, cũng không một bóng người qua lại. Nhưng ý chí của Thầy thật là sắt đá. Có lần đói khát khổ quá, bụng tính quay trở về phía đông để tìm chỗ xin nước uống đem theo rồi sẽ đi nữa, nhưng vừa quày ngựa trở về hương đông đi đặng một đỗi đường thầy lại tự nhủ:
- "Trước kia, đã thề nếu qua không đến Ấn Ðộ, quyết không trở về Ðông một bước. Nay thà đi về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào đi về Ðông để sống hèn".
Một lần khác, thầy gặp bọn mọi ăn thịt người (Tức bọn yêu tinh kể trong truyện Tây Du). Thầy Tam Tạng sẵn lòng hiến thân cho bọn quỷ khát máu ấy. Nhưng giữa lúc bàn tính, xảy có mưa to sét lơn. Bọn người rừng kinh sợ vì cho rằng trời không bằng lòng. Chúng lật đật giục thầy lên đường, nhưng thầy khăng khăng một mực nài bọn kia: hoặc hãy "ăn thịt Thầy" nếu quả thật thầy có phép làm cho bọn nó sống lâu muôn tuổi, hoặc nếu bọn chúng muốn cho thầy lên đường thì phải ăn năn sám hối, chừa thú tánh, chừa ăn thịt người từ đây. Và rốt cuộc Tam Tạng cải hóa được bọn chúng. Hơn một ngàn ba trăm năm trước đây dám một người một ngựa vượt suối trèo non, băng sa mạc, càn rừng sâu đi đến xứ Ấn Ðộ huyền bí xa xăm, Trần Huyền Trang quả là một nhà du thám vĩ đại trong lịch sử. Kỳ công đó, tinh thần nghị lực đó, người đời sau không thể không nghiêng mình bái phục. Trong thời gian mười ba năm lưu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm.
Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v... đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giới Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mười ngàn tín đồ theo học đạo.
Sau sáu năm học tập, Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Theo sách khảo cứu Pháp văn, chẳng những là một nhà sư đạo đức, Huyền Trang còn tỏ ra là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng, nhứt là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Phương, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trường an, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðường Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v. của 128 nước đã trải qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của Thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của Thầy Huyền Trang rất là đích xác. Từ ngày về Trường an, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch.
Suốt mười chín năm ròng rã (từ 645-644) thầy dịch được tất cả bẩy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ Phạn tự dịch qua Hán tự và một bộ (Ðạo đức Kinh) và một bản dịch "Ðại Thừa khởi tín luận" từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ "Ðại Ðường Tây Vực ký" .
Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bịnh hoạn và già yếu. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu ngươì ở Trường An và các vùng lân cận qui tựu để tiễn chân thầy về nơi Cực Lạc. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.
Vương Hồng Sển
(Trích "Con ngựa già của Ðường Tam Tạng")
Đường Tam Tạng từ giã cõi đời
Đường Tam Tạng từ giã cõi đời
Sau khi phiên dịch tổng cộng 75 bộ kinh chữ Phạn, gồm 1.335 quyển, Ngài Huyền Trang nhận thấy sức lực mình đến đây đã suy nhược lắm rồi, và ngày từ giã cõi đời cũng không còn bao lâu nữa.
Nhưng vào cuối tháng Giêng năm Lân Ðức nguyên niên (664), các vị đại đức dịch kinh và đồ chúng ân cần xin Ngài dịch tiếp bộ kinh Ðại Bảo Tích.
Mặc dù đã 69 tuổi và trong mình đã suy yếu lắm rồi, Ngài vẫn nắm bút gắng gượng dịch để khỏi phụ lòng tha thiết của chúng Tăng. Dịch được ít dòng, Ngài đặt bút xuống, xếp bản sách chữ Phạn lại mà bảo đại chúng rằng:
“Số lượng bộ kinh này cũng bằng số lượng kinh Ðại Bát Nhã, Huyền Trang tự lượng khí lực không còn dịch nổi. Giờ chết đến, thế không lâu nữa. Nay ta muốn qua hang Chi Lan lễ từ Phật tượng mà thôi”.
Môn nhân tăng chúng liền cùng đi với Ngài, vừa đi vừa nhìn nhau ứa lệ. Lễ Phật xong, Ngài trở về chùa, nghỉ hẳn việc dịch, chỉ chuyên tinh hành đạo. Nửa đêm mồng Năm tháng Hai, Ngài viên tịch.
Trước khi tịch, Ngài hội đệ tử lại dạy rằng:
“Ta nhận biết ngày lâm chung của ta sắp đến rồi. Sau khi ta mất, các người hãy tống táng ta một cách đơn sơ, giản dị. Hãy bó di hài ta vào một manh chiếu và an táng ở một nơi nào thâm u tĩnh mịch, chứ đừng bày vẽ nhiều điều vô ích”.
Vài giờ trước khi mất, sau một giấc ngủ, Ngài thức dậy và hoan hỷ kể cho các đệ tử nghe rằng Ngài vừa nhận thấy một tòa sen rất lớn và vô cùng đẹp đẽ nở ra trước mắt. Ngài lại chiêm bao thấy những người rất cao lớn ăn mặc toàn gấm vóc, nắm những giải lụa thêu hoa và thất bảo, từ phòng Ngài đi sang phòng phiên dịch để trang hoàng, từ trong cho đến ngoài phòng. Ngài lại nói với các đệ tử:
“Các người hãy bình tĩnh và hoan hỷ từ giã cái thân giả tạm này sau khi nó đã làm xong nhiệm vụ. Ta nguyện đem công đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, và cùng chúng sanh chứng nhập cung trời Ðao Lỵ. Ta nguyện, trong những kiếp sau, trở về cõi Ta bà này để hóa độ chúng sanh cho đến khi được giác ngộ hoàn toàn.
“Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy thị hiện trong cõi Ta bà này để đệ tử và chúng sanh được chiêm ngưỡng. Nam Mô Di Lặc Tôn Phật, xin Ngài hãy độ cho đệ tử được vào hàng thánh chúng của Ngài”.
Pháp sư Huyền Trang nhập định và trút hơi thở cuối cùng. Sắc mặt Ngài vẫn hồng hào và nét mặt Ngài phản chiếu một niềm hoan lạc vô biên.
Ngài mất vào giữa đêm mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin Ngài từ trần, vua Ðường Cao Tông không cầm được nước mắt, bãi triều ba ngày và nói với các quan cận thần:
“Trẫm nay mất một quốc bảo!”
Lễ an táng của Ngài cử hành vào ngày 14 tháng 4 tại Bạch Lộc Nguyên, với sự tham dự của hơn 1 triệu người (1.000.000) ở Tràng An và các miền phụ cận; trong số ấy có ba mươi ngàn người làm lều ở cạnh mộ Ngài mà ở.
Chỉ với con số người hộ táng ấy cũng đủ hình dung được sự cảm phục và thương mến của người đồng thời đối với Ngài thiết tha biết bao nhiêu!