-
Văn Hiến & Văn Hóa
Văn Hiến là gì?
Mỗi khi nói đến Văn Hoá người Việt mình thường tự hào với "Việt-Nam Bốn Ngàn Năm
Văn Hiến"; nhưng Văn Hiến có phải là Văn chương với Hiến pháp như phần đông người mình đã tưởng, vậy thì Văn Hiến đúng nghĩa là gì ?
Nếu bạn muốn tìm hiểu Văn Hiến với nghĩa nguyên thủy, mời bạn đọc bài sau đây trích từ tác phẩm "Hồn Nước với Lễ Gia Tiên" của triết gia Kim-Định :
VĂN HIẾN
(Kim-Định)
Văn hiến là những người hy hiến thân tâm cho văn hóa và được người trong nước kính nể nghe theo. Đó là một loại tông đồ và có thể nói ở đây cũng tìm ra được nét đặc trưng của nền văn hóa Việt Nho. Bên Ấn Độ tuy cũng có văn hiến nhưng không vươn lên đến địa vị cao nhất trong xã hội vẫn dành cho tăng lữ Brahmana. Bên Âu Châu còn kém nữa đến độ không có văn hiến, chỉ mới có văn hào, văn sĩ.
Văn hiến là sản phẩm của Việt Nho và hậu quả là khi các giáo sĩ Âu Châu đến Viễn Đông vào lối thế kỷ 16, 17 thì đều tỏ vẻ ngạc nhiên đến bỡ ngỡ vì thấy một nguyện vọng tha thiết của Platon đã hiện thực tại Viễn Đông. (*) Nguyện vọng đó là đặt quyền cai trị vào các tay triết gia gọi tắt là triết vương, hay vua phải học và hiện thực triết (philosophe-roi, roi-philosophe). Đây là một nguyện vọng đã chưa bao giờ được hiện thực ở Tây Âu, nhưng các vị thừa sai cho là đã hiện thực bên Viễn Đông. Có đúng như vậy chăng ?
(*) Plus belle en pratique ne l’était la cite reves par Platon en théorie. Rici Bernard maitre, Pour la comprehension de l’Indochine p.36
Đúng và không. Đúng ở chỗ trong đời huyền sử các vị được đưa ra làm mẫu mực toàn là các triết vương : Phục Hy, Thần Nông, Lạc Long Quân, Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ, Hùng Vương… Còn các đời sau nhất là từ Hán nho tuy không được ông nào hẳn xứng danh là triết vương nhưng ít ra có một số sự việc đáng chú ý :
*. Một là các vua đã học Kinh điển tức là sách triết.
*. Hai là địa vị các triết nhân vẫn được đề cao coi như ánh sáng soi cho cả nước : "sáng bang do triết", ánh sáng soi cho nước là do triết (Kinh Thư, Thiên Đại Cáo 13) và vì thế bao giờ cũng coi việc bàn hỏi ý kiến các hiền triết là điều rất đáng khen. Như Kinh Thi khen vua nhà Thương là "phu cầu triết nhơn", rộng cầu đến các triết gia (bài Y Huấn câu 6).
*. Ba là nước được cai trị theo văn giáo ít ra trong lý thuyết và phần nào trong thực hiện. Khi nào nước được trị theo văn giáo thì gọi là hữu đạo, bằng không thì gọi là vô đạo, chứ không có tiêu chuẩn nào khác thuộc tôn giáo và đó là nét đặc trưng hơn hết của các nền văn hóa Viễn Đông.
Vì ba điểm đó nên nhận xét của thừa sai Âu Tây có thể coi là đúng đến quá nửa, và ta có xưng tụng là nước có văn hiến (văn hiến chi bang) cũng không phải thiếu nền móng.
Thế nhưng từ hơn một trăm năm nay do sự tiếp cận với văn minh Tây Âu thì nét đặc trưng kia bắt đầu lung lay và đang sụp đổ, đến nỗi ngày nay đừng nói đến địa vị triết vương, mà ngay đến địa vị triết trong quốc học cũng bị từ chối hoặc coi thường. Vì thế hôm nay khi thấy đề cao triết chắc có người không khỏi ngạc nhiên, vì đã quen nghe những lời chỉ trích triết : triết nói những chuyện trừu tượng, xa xôi, vu vơ vô bổ cho đời sống ăn làm… Thực ra thì đó chỉ là sự mâu thuẫn vòng ngoài vì nếu đi vào nội dung thì không có chi đáng phải ngạc nhiên, vì những điều chê bai triết cho đến nay hầu hết là vì triết Tây, một thứ triết bám riết chữ nghĩa hay cùng nữa thì là Hán nho bám sát luân lý và những định chế đã lỗi thời… Hoặc nữa là triết học lý niệm đề cao lý trí đến độ duy ngã độc tôn nên chẳng sao đi vào đời sống nổi.
Đời sống con người vận hành trong những ngõ ngách của lý với tình, đôi khi có cả chí, vậy mà triết học lại duy lý tức chỉ biết có lý trí thì đi sao nổi vào đời sống. Chính vì triết học quá duy lý nên nguyện vọng triết vương của Platon chỉ là một giấc mộng không tưởng, và triết chỉ còn lẩn khuất trong một vài phòng học y như một ngành chuyên môn nào khác vì đã để mất hẳn địa vị bà chúa tỏa uy tín trên khắp các kiến thức vì bơm sinh khí cho chúng bằng một mối quán thông. Hiện nay triết được dạy trong chương trình giáo dục của ta cũng như các đại học thì chính là thứ triết một chiều đó. Vì vậy trong thực tế nền triết học như được đề nghị trong tập sách này khó hy vọng thấy được hiện thực.
Tuy thế vì nền triết lý giới thiệu ở đây có tính chất toàn diện gởi đến cho toàn dân chứ không còn hạn cục trong bốn bức tường hàn lâm làm trường ốc, cho nên vẫn chưa đến nỗi thất vọng, vì ngoài hàn lâm trường ốc chúng ta còn cả một khối nhân dân, đây là môi trường chúng ta có thể hoạt động. Nếu biết tổ chức thì sẽ trở nên mạnh mẽ có khi đạt được khả năng khôi phục địa vị cho triết ít ra phần nào như xưa lúc các tư trào Tây Âu chưa xâm nhập. Bấy giờ chúng ta sẽ đủ bảo đảm tìm đáp số cho câu trả lời sau đây : ai sẽ đứng ra hiện thực trở lại lý tưởng triết vương. Ai ? Dân chúng hay chính quyền ? Câu trả lời tất nhiên là chính quyền, bởi chỉ có chính quyền mới nắm đủ quyền lực và phương tiện, là những yếu tố thiết yếu cho sự hiện thực bất cứ một ý tưởng nào có tầm mức quốc gia.
Tuy nhiên nếu ta theo đúng tinh thần Việt Nho thì sẽ thưa rằng phần lớn là dân. Dân mới là gốc là bổn là óc còn chính quyền chỉ là cấp thi hành. Chính quyền ví được với hoa trái quả cây, còn muốn cho những điều mong ước thành sự thực thì cần nhân dân phải hành động. Phó mặc cho chính quyền thì chỉ là chuyện may rủi. Những người nắm chính quyền trước ngày mất nước hầu hết được đào tạo theo lối của Tây phương, còn giới thiên về Đông phương thì chỉ biết bằng nghe ngóng và phần nhiều là mắc tự ti mặc cảm. Bởi Đông phương vừa huyền bí, lại đã bị lãng quên lâu ngày, nên nay muốn nhìn lại khuôn mặt cũ thì cả là một công trình dài hơi, nếu không là người vừa có tâm huyết vừa kiên trì vững dạ thì làm sao thấy được.
Vậy mà những vị nắm quyền hành đã phải hiến phần lớn thì giờ vào việc hành chánh, cho nên giả sử trong số có ai muốn nghiên cứu cổ học cũng khó tìm ra thì giờ. Vì thế hầu hết chính quyền được điều khiển theo đầu óc công chức, một lối làm việc duy lý rất gần kiểu máy móc phần mớ, nên lạnh lùng, trốn trách nhiệm nhiều được ngần nào hay ngần đó. Như vậy là một lối làm việc ngược hẳn với lý tưởng quốc gia : nó đòi phải có tinh thần cán bộ với những cái nhìn trên toàn diện với bầu nhiệt huyết hăng say với lòng yêu nước cao độ. Chính vì thế sự liên lạc với nhau là điều tối quan trọng và đáng cầu ước. Hội văn thì nhiều rồi, nhưng một sự liên lạc những tâm hồn có óc triết thì chưa, mà có triết thì mới trông đặt được nền vững.
Vậy cần phải làm thế nào để liên kết những tâm hồn triết, những người ưa thích triết ? Đó là điều khó, bởi vì những tâm hồn triết thường ưa thích tĩnh mịch, đơn chiếc vì đây là phong thái thuận lợi cho sự suy tư. Tuy nhiên thời nay là thời ngự trị của lượng số, nên thiếu liên kết thì tiếng nói lẻ loi không đủ mạnh, không được mấy ai chú ý đến, mà như vậy là một điều bất hạnh cho quê nước vốn từ xưa vận hành trong ánh sáng Minh Triết.
Chính vì thế mà những tâm hồn triết phải chịu hy sinh một số thì giờ cho việc liên kết, đặng khuyến khích nhau và cần cùng nhau lên tiếng hay hành động, có vậy mới tạo được hiệu nghiệm cho tiếng nói của triết. Có vậy tiếng nói chân thành của dân tộc mới không bị lấn át trước các tư trào ngoại lai đã được tổ chức rất vững chắc, nếu không có một sự liên kết tối thiểu nào về phía văn hóa dân tộc thì dù nền văn hóa này có còn những người hâm mộ nhiệt thành đến đâu đi nữa rồi cũng sẽ chỉ là những cá nhân trơ trọi lẻ loi, sẽ bị siêu bạt trong cái mớ quần chúng vô dạng (amorphe masse) và như vậy sẽ không tránh nổi làm mồi ngon cho bất cứ trào lưu nào cũng có thể cưỡng ép lôi đi.
Bạn sẽ hỏi liệu còn tìm được đủ số người nhiệt thành để làm thành một lực lượng chăng ? Muốn trả lời điểm này, cần phải có một bộ máy dò mìn để tìm ra những quả mìn là các tâm hồn nhiệt huyết với dân tộc. Máy dò đó là gì nếu không là một tổ chức, tuy rất lỏng lẻo nhưng cũng là một tổ chức ít nhất để tìm ra người đồng thanh đồng khí. Riêng chúng tôi cũng biết được một số tuy nhỏ nhưng cũng đủ để có lý tin rằng nếu có phương tiện tìm kiếm thì số đó còn nhiều, ít ra đủ để làm thành một nhóm.
Chúng tôi dám tin như thế vì số người chúng tôi biết chỉ là tình cờ tuyệt nhiên bên ngoài sự tìm bạn. Vậy mà cũng thấy được một số khá đông đủ cho phép tin rằng dòng máu văn hiến của Lạc Việt chưa ngưng chảy trong người Việt Nam, và dầu trong hiện trạng đầy thối nát cũng vẫn còn thể tìm ra những tâm hồn cao khiết đại diện cho hồn thiêng của muôn thế hệ tiên tổ đã dựng nên nước Việt Nam này và bao lần đã cứu nó khỏi tiêu diệt. Hồn thiêng đó vẫn còn phảng phất trên giải non sông này, vì thế tôi cho là đã đến lúc các người đó phải tạm thời bỏ giai đoạn ẩn náu, phải vượt qua những dè dặt e ngại để đứng vào một thứ liên lạc nào đó để gây lại tinh thần. Tinh thần đó trong trường hợp hiện đại của nước nhà không là chi khác hơn hồn văn hóa dân tộc, mà các cụ xưa cũng gọi là Đạo, và các cụ đã nói câu chí lý : "Đạo mất trước Nước mất sau". Chúng ta có thể tiếp : vậy muốn Nước còn thì cần Đạo còn. Nên trong các việc làm để cứu quốc thì cứu Đạo là việc tiên quyết.
TÁI BÚT 1979
Trên kia khi nói những người có tâm hồn triết là có ý tránh tiếng triết học là điều ít người học và hơn nữa rất hiếm người thích, mà giả có thích thì cũng vô bổ vì các triết học đó xây trên những nguyên lý nền tảng của chuyên chế. Còn chữ tâm hồn triết nói ở đây thì thực ra chỉ là một hướng vọng lên cao là tâm trạng gặp được rất nhiều trong con người Việt Nam. Đó là những người dù chưa học triết, hay văn chương, hay không biết đọc biết viết đi nữa, cũng vẫn có tâm hồn triết, đó là những người mà một số học giả Tây phương như linh mục Cadière, hay Paul Mus gọi là triết nhân. Họ bảo Việt Nam là nước giàu triết nhân hơn hết, càng đi sâu vào vùng quê càng gặp nhiều. Và hiện nay có thể nói hầu hết người Việt đã nhận ra sự cần thiết của một thứ triết nào đó, mà nếu vì ảnh hưởng Tây Phương mà sợ tiếng triết thì nên gọi là Đạo, hay là Văn Hóa Dân Tộc. Chúng tôi được nhiều tin do những sinh viên mới thoát ra đầu năm 1978 cho biết nhiều người trước kia không ngó ngàng chi tới bộ Triết lý An-Vi thế mà nay lại mê mải đọ, trong số đó có nhiều sinh viên kỹ thuật. Chúng tôi tin rằng thảm họa 1975 đã làm cho tâm hồn người Việt trở nên chín mùi hơn rất nhiều và đã thấy không thể tránh được triết vì triết chẳng qua là hệ thống những tư tưởng, mà tư tưởng dẫn đạo quốc gia, dẫn đưa thế giới, nên vấn đề lúc này là không được né tránh triết. Đó chỉ là lối đà điểu vùi đầu vào cát để khỏi thấy tai họa. Muốn tránh được tai họa, tránh được việc triết thuyết ngoại lai vào làm chủ đất nước, tàn sát dân tộc thì chúng ta cần phải có thái độ tích cực : cần xem rõ để phân biệt thứ triết độc phải tránh, thứ triết lành mạnh phải vun tưới phát triển.
Tâm hồn con người không thể để trống. Để trống thì quân thù sẽ có đất gieo tà thuyết. Vậy cần phải trồng cây triết nào đã chứng tỏ ơn ích được nhiều ngàn năm. Vậy đối với người Việt Nam thì không còn lối khác hơn là triết lý Việt Nho, vì nó đã được đặt nền từ ngày khai quốc, và đã tô tạo cho đất nước, quê hương tới tận nay.
Vì thế chúng tôi cầu mong nhiều người Việt chú ý đến nền triết dân tộc này để học hỏi, tài bồi, phát triển ngõ hầu chúng ta có được một nền tảng triết lý vững vàng cho việc duy trì tinh hoa nước Việt và nhất là từ đó đóng góp mạnh mẽ cho công cuộc phục quốc mai ngày sớm thành tựu.
(Kim-Định)
-
Văn Hoá và Đạo Việt
Văn Hoá là Tính dân tộc và Đạo là Hồn nước Việt, nên Văn Hoá Việt phải là (chủ) Đạo, là Hồn của mỗi người Việt chúng ta để cho mình biết sống với Dân Tộc Tính một cách xứng đáng và đầy hãnh diện.
Văn Hoá và Đạo Việt
Nhân đọc bài "Một gợi ý về văn hoá Việt và sống Đạo" trên mạng "dunglac.org",(http://www.dunglac.org/index.php?m=m...&id=68&ia=5903) của tác giả Hoàng Sỹ Quý, sj. để mở đầu đã viết:
- "Như ai nấy đều biết, đã có nhiều học giả viết về văn hóa Việt Nam, viết từng cuốn sách một, và hẳn còn nhiều học giả khác tiếp tục nữa. Thế nghĩa là về văn hóa Việt Nam, có quá nhiều cái để nói, nên nói hoài không hết. Mà nếu có cái được nói rồi, thì vẫn có người nói lại được, nhưng khác đi. Bởi lẽ trong văn hóa, chẳng mấy khi có gì “sáng sủa và rõ ràng” hẳn như các ý tưởng của Descartes hay công thức toán học, hầu có thể chỉ đích danh: “Nó ở đây”, trăm phần trăm nó là thế này, chứ không như vậy.", làm cho tôi muốn viết thêm về văn hóa Việt.
Qua bài viết này tôi không có ý nói lại, mà chỉ mạo muội nói đi để góp ý với tác giả về văn hóa và Đạo theo quan niệm của tổ tiên Việt tộc, với con người là: "Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí": người là cái đức (cái hoạt lực) của thiên địa, là giao điểm của âm dương, nơi quỷ thần tụ hội, là cái khí tinh tế của ngũ hành. (Lễ Vận VII, I) và: "Nhân giả kỳ thiên địa chi tâm dã": người chính là cái tâm của thiên địa.
Vì Văn Hoá với nghĩa nguyên thủy từ quan niệm nền tảng đó là chính con người (văn) phải biết "cảm" với tình cái "thiên nhiên" để "hóa". "Vì hóa là hóa ra, mở ra cho càng ngày càng rộng để đạt vô cùng y như thần, nghĩa là vô phương, vậy nên nói "cùng thần tri hóa" nghĩa là có đi cùng với thần mới biết hóa, còn khi đi cùng với lý sự thì sẽ bế tắc ứ trệ: "cùng thần tri hóa, cùng lý chi mụ !" (Kim-Định). Cho nên Văn Hóa nghĩa là là dùng văn hay tất cả những gì thuộc về con người để tiến hóa, rồi biến hóa mà thánh hóa cho thành Nhân. Vì: "Văn hóa chân thực phải biết đặt thần linh trên vật chất, tâm linh trên lý trí. Vì lý trí con người chỉ còn thể tạo ra được những tác phẩm khô khan thiếu sinh lực và chỉ gây nên rộn ràng trong một giai đoạn ở một khu vực nào đó chứ không có sức vượt không thời gian như thần." (Kim-Định).
Dĩ nhiên, ở những xứ dân chủ này với tự do ngôn luận thì ai muốn nói gì nói, viết gì viết, nhưng không phải như đa số người trí thức nghĩ là ai cũng có lý của họ. Đương nhiên là ai cũng có lý theo sự hiểu biết và suy luận của mỗi người, nên mình mới cho là đúng theo suy luận một chiều của lý trí, nên mới nói hay viết ra, nhưng đó mới chỉ là có thể đúng theo lương tri kiểu cầu âu (may rủi), chớ chưa là "tương dĩ thuận tính mệnh chí lý", hay nói cách khác "thuận thiên giả tồn". Vì "thuận thiên" mới có (thiên) lý tức là phải có sự chiếu dọi "tự nhiên" từ trên cao (thiên) xuống, mà muốn có được sự chiếu dọi đó của "thiên nhiên", thì phải có "tâm trống" (không) để mới có thể "tương giao thông hiệp" với Càn Khôn, với Vô Thường thì mới đồng Tâm, đồng Tính, mới đúng với Thiên Mệnh, mới là Thiên lý hay Chân Lý thì mới gọi là Đúng.
Vì vậy mà ai cũng tưởng (cái gì hợp với lý trí):
- "Cái gì hợp với tiêu chuẩn đó thì là đúng và từ đây chúng ta đụng chạm đến cái luật khắt khe của nó là "chân lý có một" và dẫn liền đến câu định nghĩa chân lý là "sự đúng hợp với lý trí".
Nói rộng ra người ta chỉ cho là thật những gì ăn khớp với ý tượng của lý trí. Ta biết những ý tượng này là sản phẩm của giác quan nên cũng hạn hẹp y như giác quan. Vậy khi người ta lấy nó làm nền móng, kết cấu chúng lại thành hệ thống gọi là ý hệ thì ta hiểu tại sao nó gây nên ứ trệ. Tất cả danh lý và biện chứng đều y cứ trên ý niệm cũng gọi là biểu tượng, vì thế chỉ biết có chân lý đối tượng vérité-objet tức chân lý đúng với. Vì thế không có chân lý mà chỉ có chân lý của, tức chân lý của phe này nhóm nọ tôn giáo kia, trường phái khác, và tất cả đều hô "chân lý chỉ có một". Nội dung chân thực của câu nói là "chân lý ấy chỉ hợp cho một tiêu chuẩn của một nhóm nào đó mà thôi". Mà vì mọi phe nhóm có cái nhìn riêng, được chi phối theo những ích lợi của mỗi phe, mà đã nói đến lợi ích thì hầu hết là riêng tư. Vậy khi người ta hết lòng bênh vực chân lý thì hay xảy ra là hết lòng bênh những sự riêng tư. Do đó dễ hiểu tại sao nhân loại đã nhân danh chân lý để giết nhau cách rất tàn khốc. Vì đó là loại chân lý có một, chân lý đối tượng, chân lý của khoa danh lý của biện chứng pháp."(Kim-Định)
Vì vậy mà đa số người đã hiểu sai nên lầm lẫn:
"Vì có một sự ngăn trở lớn lao là con người lầm là linh cái không phải là linh, lầm là thần cái không phải là thần, lầm là người cái không phải là người mà chỉ là "con vật có khả năng suy luận" mà suy luận là đi từ ý niệm này đến ý niệm kia nên hòan toàn hàng ngang, không có gì từ trên dọi xuống. Do đó gây nên ứ trệ, không đạt được linh. Không đạt linh làm sao đạt nhân. Vì nhân thiết yếu bao hàm linh mà linh là cái gì tham dự vào toàn thể gọi là tâm linh." (Kim-Định)
Nên dựa vào quan niệm Nguyên lý và biện chứng Âm Dương như tác giả Hoàng Sỹ Quý đã trình bày để diễn giải và đối chiếu (áp dụng) vào việc sống Đạo như đã viết:
"Về cân bằng âm dương, hãy nắm chắc cả hai bên: siêu nhiên và tự nhiên, nhập thế và xuất thế, tự tin và tin vào Chúa, tự trọng và coi mình như đứa bé trước mặt Chúa; thế rồi cầu tiến với bảo cổ, sống đạo tự mình với sống đạo cộng đồng; và sau cùng, cân bằng giữa nhu với cương, nhưng nhu mạnh hơn một tí.
Đối với Thiên Chúa, hãy giữ đúng vị thế chí âm trước Chí dương bằng đức tin theo ý nghĩa Kinh thánh, nghĩa là hạ mình hết mức, quy thuận hoàn toàn. Một cách cụ thể, hãy cụp mắt xuống để thấy Chúa lớn cao vô tận."
Theo tôi hiểu thì tác giả đã dựa vào nền tảng "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" để dẫn đến sự cân bằng của âm dương, hay giữa nhu với cương nhưng nhu mạnh hơn một tí, hay có thể nói âm sao dương vậy. Như vậy là đã quên hẳn cơ cấu căn bản "quân bình động" của âm dương là "tham thiên lưỡng địa" tức trời 3 đất 2, mà từ cơ cấu đó trong văn hóa mình với tiếng Việt luôn luôn nói là "vài ba cái" hay "hai ba thứ"..., nên âm dương không có cân bằng mà là quân bình 2/3. Xin đừng hiểu 2 với 3 theo số toán học với giá trị tuyệt đối, mà phải hiểu với huyền số, với số 2 là lưỡng nghi, thiên địa, càn khôn, âm dương, nhu cương, v.v...; và số 3 là thiên-địa-nhân còn gọi là "tam tài" hay "ba ngôi" với "ba vua", thì phải hiểu là nếu trời là vua, đất là vua thì con người cũng là vua. Đó chính là nhân sinh quan của tổ tiên Việt tộc từ khởi thủy, nên:
"Khi nói con người là Hội là Giao là Trung thì ngầm hiểu rằng nó phải ở giữa hai cái gì đó : thưa là ở giữa Trời với Đất, ở giữa âm với dương (âm dương chi giao) nên cái định tính của nó là quân thiên, tức sự thăng bằng cao cả nhất giữa Trời cùng Đất. Vậy chứ quân thiên ở đây không nên hiểu là một phụ tính thêm sau, có hay không cũng được, mà là thứ quân bình cấu tạo nên con người y như dưỡng khí với khinh khí cấu tạo nên nước vậy. Cái đức Thiên với Địa (thiên địa chi đức) không phải là phụ tính của người nhưng chính là yếu tố cấu tạo ra con người nên không thể lìa khỏi dù chỉ một giây (bất khả tu du ly dã) hễ lìa ra là hết người. Vậy mối quân thiên cũng gọi là Trung Dung chính là yếu tính đó" (Kim-Định)
Vì vậy với "vị thế chí âm trước chí dương" và thái độ "cụp mắt xuống để thấy Chúa lớn lao vô tận", chỉ là quan niệm và cử chỉ của con người theo tôn giáo với đức tin, chớ không phải là Đạo theo nghĩa "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" và "suất Tính chi vị Đạo". Vì với Đạo theo quan niệm của Việt tộc là Không có tín điều hay là mặc khải mà chỉ nhận biết có Trời, nhưng là Trời không nói "Thiên hà ngôn tai":Trời có nói đâu. Vì vậy mới đề cao Trí và đặt Trí trước cả Nhân và Dũng (Trí-Nhân-Dũng là ba đức phải có cả ba để mới là quân tử), cho nên phải tự mình dùng Trí thông minh mà tìm ra chân lý nằm ngay ở nội tâm của mình (thiên lý tại nhân tâm) hay như Mạnh Tử nói:
- "Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn ?": Đạo ở trong mày, sao mày đi tìm ở đâu ?
Để nói là người ta hay tìm ở đâu xa bởi vì Đạo mập mờ thấp thoáng :
- "Đạo chi vi vật hoảng hề hốt hề" (ĐĐK. 21), hay "vô thanh vô xú": không tiếng không hơi (Trung Dung, 35). Vì vậy Đạo là Không, là Vô, nên không có tín điều quy định.
Hơn nữa: "Chữ Tính cũng như chữ Mệnh có nhiều nghĩa. Chữ Tính mà Tuân Tử cho là xấu là tính hậu thiên có thể gọi là tính khí, tính tình nặng phần sinh (lý) nhẹ phần tâm (linh). Chữ Tính ghép bởi hai bộ sinh và tâm: nhưng tâm phải trùm cảnh (sinh) thì mới là Tính. Đó chính là Tính mà Mạnh Tử bảo là tốt, là tính tiên thiên, có thể gọi là Thiên tính, hoặc là Tính mệnh mà ta có thể nói liều lượng pha độ phải là ba tâm hai sinh theo câu Kinh Dịch là "tham thiên lưỡng địa". Ở đây chúng ta sẽ theo nghĩa này, như được nói tới trong sách Trung Dung:
- "thiên mệnh chi vị Tính, suất Tính chi vị đạo": Tính tức là Mệnh Trời, sống theo Tính tức là Đạo. Như thế Tính là Mệnh, Mệnh là Tính. Có khác nhau về quan niệm của chúng ta: cùng một ánh linh quang nếu xét về đàng xuất phát ra do Thiên thì gọi là Mệnh, khi phú bẩm vào con người thì gọi là Tính." (Kim-Định)
Cho nên: "Theo nghĩa nội thì không được hiểu Thiên mệnh như một mệnh lệnh nào ở ngoài truyền đạt tới con người, chụp lên đầu cổ nó như câu Mạnh Tử đã chú thích : "Tính mệnh thiên tiên phi do ngoại thược ngã dã". "Tính mệnh là thiên tiên là phú bẩm, bẩm sinh tự nội (inné) không phải là do ngoại đúc ra và đổ chụp vào ta đâu". Vậy phải hiểu theo nghĩa nội thiên tiên, tức là tia sáng đã phú bẩm nơi thẩm cung tâm hồn con người mà ta cũng gọi là Minh Đức tinh tuyền linh diệu sáng láng bao la, hơn thế nữa là chính cái Tính bản nhiên con người, nhưng đồng thời cũng là Thiên lý, một thứ Thiên lý nội khởi : "thiên lý tại nhân tâm".
Ta quen nói vắn là Tâm Linh. Tâm chỉ tâm Tính, còn Linh chỉ phần linh diệu sáng láng ăn thông với Thiên cách huyền diệu nên Lão Tử gọi là "huyền đồng". Sự giải tỏa sáng láng đó nhiều hay ít sẽ tuỳ theo với tu luyện và mức độ tinh ròng. Khi sáng đến mức độ như xem thấy Tính, thì lúc ấy gọi là Đạo "suất tính chi vị Đạo". Nghĩa là giữa mình và Tính không còn có gì xen ngang. Cả hai ở liền nhau trực tiếp, là một, không có mảy may gì tư lợi, tư dục vẩn đục xen vào để hạn chế cái Tính bản nhiên hoặc làm cho nó đi sai Tiết diệu uyên nguyên của Thiên Mệnh nên nó trở thành phổ biến linh diệu vô cùng, và chính khi nghĩ đến cái Đạo ở mức độ này mà Khổng Tử nói : "triêu văn Đạo, tịch tử khả hỹ"(L.N. IV, 8)= "Sáng được nghe Đạo chiều chết được rồi". Chữ văn vừa có nghĩa là nghe vừa có nghĩa là tin thuận vâng theo. (Le mot écouter prend ici le double sens d’entendre et d’obéir).
Vì chữ Đạo nói ở đây phải viết hoa, cực tinh ròng, siêu vượt mọi trần cấu, không có gì ví được. Đó là mức độ cao nhất cần ghi nhớ để vừa cố tiến tới vừa để phân biệt với các mức độ thấp hơn, mà người ta cũng kêu ẩu là Đạo, nhưng đó là những thứ đạo đã ly dị với nghĩa uyên nguyên chỉ còn lại cái nhãn hiệu bên ngoài. Những thứ đạo đó có nghe nói đến từng năm nhưng lúc phải chết, ai không biết tiếc sống thì kể là khờ." (Kim-Định)
Cuối cùng tôi cũng xin được góp ý về phần chú thích số 11 của tác giả về câu: "Hỉ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi Trung; phát giai nhi trúng tiết, vị chi Hòa".
(11) "Thật ra giải thích Trung dung là Justum medium có lẽ hợp hơn với Trình tử và phần đông, nhưng nếu phân tích kỹ câu: “Hỉ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi Trung, nghĩa là khi chưa xảy ra biến cố, chưa có phản ứng gì, do đó cũng chưa có thái quá hay bất cập, thì đấy gọi là Trung. Vậy Trung không thể chỉ là tránh thái quá hay bất cập. Điều ấy càng rõ với câu sau đó: Phát nhi giai trúng tiết, vị chi Hòa: biến cố xảy ra rồi mà mừng giận đúng mức cần (đối với biến cố ấy), chẳng cứ mừng giận tới đây, thì đó gọi là Hòa, nghĩa là Đạt đạo (đúng với lẽ tự nhiên). Vậy Trung có gì giống như chữ Indifferentia, Bất thiên, không thiên lệch do tự ái, thành kiến, khuynh hướng bản năng tức khách quan vậy."
Muốn diễn giải câu này cần phải biết câu này thuộc trong chính Kinh gồm có 109 chữ, của sách Trung Dung rất nhỏ chỉ già một ngàn rưỡi chữ, nhưng là tinh hoa của Nho, lại vắn tắt nên tôi viết hết cả kinh ra đây cho ai muốn học. Vì ai học và hiểu Kinh này tức là học ít biết nhiều, và nếu hiểu thật nghĩa Đạo để biết suy ra thì vô cùng tận. Lời kinh như sau:
Thiên mệnh chi vị tính.
Suất tính chi vị đạo.
Tu đạo chi vị giáo.
Đạo dã giả bất khả tu du ly dã.
Khả ly phi đạo dã.
Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ.
Khủng cụ hồ kỳ sở bất văn.
Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi.
Cố quân tử thận kỳ độc dã.
Hỉ nộ ai lạc chi vị phát vị chi trung.
Phát nhi giai trúng tiết vị chi hòa.
Trung dã giả thiên hạ chi đại bổn dã.
Hòa dã giả thiên hạ chi đạt đạo dã.
Chí trung hòa thiên địa chi vị yên, vạn vật dục yên.
dịch nghĩa:
Mệnh trời gọi là tính.
Noi theo tính gọi là đạo.
Tu đạo gọi là giáo.
Đã là đạo không thể ly lìa giây phút.
Ly lìa được không phải là đạo.
Vì thế quân tử thận trọng chỗ không thấy được.
Lo sợ điều mình không nghe thấy.
Không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng.
Không gì tỏ rõ bằng cái tế vi.
Mừng, giận, sầu, vui chưa phát ra gọi là trung.
Phát ra trúng tiết gọi là hòa.
Trung là cái gốc lớn trong thiên hạ.
Hòa là chỗ đạt đạo.
Chí trung hòa (đi tới trung tất có hòa): Trời đất đặt vào đúng vị, vạn vật được nuôi dưỡng.
Kinh vắn tắt chỉ có vậy nhưng sức chứa mênh mông y như Kinh Dịch. Cho nên muốn hiểu cho đúng hai chữ Trung Dung với chữ Trung Hòa ở đây, thì phải hiểu Đạo với Âm Dương tức là Thiên và Địa, nhưng Thiên ở đây không phải là nghĩa Trời mà phải hiểu là nghĩa ở Trong, và Địa không phải là Đất mà là nghĩa ở Ngoài. Vì vậy suy ra ở Trong nghĩa là Trung tức là Tâm là Tính, còn ở Ngoài nghĩa là Dung tức là Dung thông, Hòa hợp. Và cứ đó mà suy ra chẳng cùng nhưng lại kết tinh vào ba chữ Chí Trung Hòa như cuối kinh ta thấy câu: "Chí Trung Hòa thiên địa chi vị yên, vạn vật dục yên", nên Chí Trung Hòa nghĩa là muốn Hòa cùng cực thì phải đi vào cùng tận đến chỗ ẩn vi.
Vì vậy "Mừng, giận, sầu, vui chưa phát ra gọi là Trung", vì chưa phát là Trung ra tức còn ẩn vi chưa thành Tính, chứ không là nghĩa tránh thái quá hay bất cập (!)
Còn "Phát ra trúng tiết gọi là Hòa", nghĩa là phát ra đúng nơi, đúng lúc, đúng (tiết) nhịp, ăn khớp với trên dưới mọi điều hay mọi người tức là Tính bao Dung để mà thông cho "thuận thiên" thì đó mới là Hòa, chứ không có mức độ nào bắt buộc mình phải tôn trọng cho đúng cả !
Vì vậy nên phải biết (tri): "Tri chu hồ vạn vật nhi Đạo, tế thiên hạ cố bất quá. Bàng hành nhi bất lưu. Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu. An thổ đôn hồ nhân, cố năng ái "(Hệ Từ IV): "Biết trọn được khắp vạn vật là Đạo, nên gây được an hòa cho khắp cõi, vì vậy không đi quá. Hoạt động ở vòng ngoài mà không bị trôi theo lưu tục. Thấu hiểu mệnh trời, nên không ưu sầu. Yên nghỉ lại nơi Thổ tâm linh và đôn hậu tình người nên có thể yêu thương bằng tấm lòng chân thực."
Để kết luận, văn hóa Việt chính là Đạo Việt với ba nền tảng chân lý nổi bật:
1/ Thiên mệnh là chính Tính con người (thiên mệnh chi vị tính).
2/ Đưa con người lên bậc tham thông (dữ thiên địa tham).
3/ Chí Trung Hòa: muốn được Thái Hòa phải đi vào tận chỗ ẩn vi.
Đó là ba chân lý đưa Việt Nho lên đợt cùng tột của Triết Lý Nhân Sinh.
Nhưng vì người ta đã mất ý thức về chiều kích vô biên nơi con người nên phải đi tìm lý do tồn tại cho con người bên ngoài con người, bắt con người lệ thuộc từ trong cơ cấu, từ lề luật đến thái độ, tức là vong thân vậy !
Viết xong, ngày 8 tháng 1 năm 2009.
Nguyễn Sơn Hà
Trích từ Vietland.net
-
Văn Hóa là gì ?
Phần đông ai cũng hiểu nghĩa thông thường Văn Hóa là văn học, văn chương, văn thơ, văn nghệ hay phong tục, luật lệ, hiến pháp, v.v... đã được ghi chép lại với thời gian, qua tài liệu sách vở và đã được cất kỹ trong thư viện, để lâu lâu lấy ra coi lại còn gọi là học, cái diễn trình tiến hóa của hình thức chữ nghĩa văn chương rồi thay đổi tư tưởng hay hình thức theo suy nghĩ của mình, với mỗi thời đại.
"Văn hóa đâu phải là một cái vốn mà mỗi người gây lấy cho mình từ con số không. Một nền văn hóa sâu sắc phải có tính chất di truyền, mỗi đời thêm một ít sở đắc, nhưng không được động chạm tới nền móng, không thì mất cả. Đó là một cuộc tiến triển có cơ thể, có liên tục."(Triết gia Kim-Định)
Nhưng Văn Hóa với nghĩa nguyên thủy là con người (văn) biết sống với tình cảm để cảm hóa cái đức Nhân nơi mình, biết sống với luật của thiên nhiên để biến hóa theo Thiên tính còn gọi là Thiên mệnh hay Tính mệnh, để mà thánh hóa, thần hóa, nhân hóa nghĩa là THÀNH NHÂN.
Cho nên Văn Hóa là Thành Nhân ngoài ra không là gì khác, như triết gia Kim-Định đã nói :
"Con người là một thực thể tối vô ích, vì nó không dùng vào việc chi được cả, bởi chung cứu cánh của nó đã là nó rồi và nó chỉ đạt cứu cánh khi nó biết trở lại với nó, cứu cánh của người là người, là trở lại với nhân tính của mình, chỉ có thế thôi, chứ không thể trở thành khí cụ hữu ích cho cái chi cả, dù là cho quốc gia, cho nhà nước, cho đạo, trái lại Đạo cũng như nhà nước, quốc gia được thiết lập ra vì con người."
Vì vậy :
"Muốn vươn lên đến Tính mạng con người cần phải học cho biết khả năng của mình, nếu không thì tưởng rằng mình sinh ra để làm trò chơi cho số kiếp và lúc ấy sẽ nằm ù lì lại trong tất mệnh, định mệnh."(Kim-Định)
Ý nghĩa Văn Hoá
Dưới đây là những tư tưởng của triết gia Kim-Định về Văn Hoá mà tôi muốn cho bạn biết thêm để tâm tư mà hiểu thấu triệt ý nghĩa của Văn Hoá.
*. "Văn hóa chân thực phải biết đặt thần linh trên vật chất, tâm linh trên lý trí. Vì lý trí con người chỉ còn thể tạo ra được những tác phẩm khô khan thiếu sinh lực và chỉ gây nên rộn ràng trong một giai đoạn ở một khu vực nào đó chứ không có sức vượt không thời gian như thần."
*. "Vì hóa là hóa ra, mở ra cho càng ngày càng rộng để đạt vô cùng y như thần, nghĩa là vô phương, vậy nên nói "cùng thần tri hóa" nghĩa là có đi cùng với thần mới biết hóa, còn khi đi cùng với lý sự thì sẽ bế tắc ứ trệ : "cùng thần tri hóa, cùng lý chi mụ !"
*. "Bình Văn tức thời Minh triết ngự trị, nên đáng gọi là một nước cai trị bằng văn hóa theo nghĩa cao quý nhất của hai chữ văn hóa : là lấy văn mà cảm hóa."
*. "Văn hóa chân thực phải là việc của những cái biết bằng trực giác, trực giác thuộc Minh Triết hay những tri thức đã được tẩm nhuận bằng trực giác (như triết lý) thì mới để lại ảnh hưởng sâu xa trên tâm hồn, giúp cho việc đào luyện con người tiến lên tinh thần chân thực, vì nó có thần nên sẽ còn sống mãi, bởi đó vượt sự kiện bì phu là những thứ năng biến đổi vì nó ở ngoại diện."
Sơn Hà
trích từ Việtland.net